Sách Phong Thủy Chọn Ngày Lành Tháng Tốt

24. Các Thần Sát

Đối với phái Phong Thuỷ Huyền Không phi tinh, việc tọa sơn lập hướng phải đặc biệt chú ý phương vị Thái Tuế và Tuế Phá. Thí dụ người sinh năm 1984 tuổi Tý, nếu xây nhà theo sơn Tý, hướng Ngọ, năm đó là năm Tý tức là phạm Thái Tuế. Tuế Phá không có cách gì hoá giải được, tuyệt đối không được động đến, nếu động vào khó tránh khỏi cái chết. Thái Tuế có thể ngồi lên không thể hướng vào, chồng cát tinh như Lộc mã, Quý nhân, giờ Quý Đăng Thiên Môn, Thiên Đức, Nguyệt Đức vào thì đại cát. Đây là trường hợp động thể sửa chữa, còn xây cất thì không được lấy tuổi năm sinh của mình để lập hướng.

Ví dụ người tuổi Tý không được lập hướng Tý

Điều gọi là “niên canh xung Thái Tuế” chính là Thái tuế của năm đó xung khắc với năm sinh. Thí dụ người sinh năm 1938, tức năm Dần. Niên canh Thái Tuế của người đó là Dần, theo 12 địa chi thì Dần tương xung với Thân. Vì vậy gặp năm Thân, tức là năm “niên canh xung Thái Tuế”. Người này trong năm Thân phải đặc biệt chú ý tránh hành động hai phương Dần và Thân, nếu không dễ gặp trắc trở.

Xem thêm các mẫu Vòng Thạch Anh Chỉ Vàng: https://kimtuthap.vn/san-pham/vong-tay-da-thach-anh-toc-vang/

Vòng tay đá Thạch anh tóc vàng

Thí dụ như người sinh năm Dần xây dựng nhà hướng Dần, gặp năm Thân, Thái Tuế đến Thân có nghĩa là Thái Tuế vào nhà người sinh năm Dần ở ngôi nhà ấy gọi là bị xung phạm Thái Tuế, dễ gặp tai họa. Cho nên người sinh năm Dần không được lấy năm sinh của mình để lập hướng. Luận theo sinh diệt thì người tuổi Tý không được mở cửa hướng nhà vào cung Tý (cung Tý trên địa bàn); người tuổi Sửu không nên mở cửa (hoặc lập hướng nhà) theo hướng Sửu vv… vì không nên xung phạm Thái Tuế.

Thí dụ người sinh năm 1936 tuổi Tý, xây nhà theo sơn Tý hướng Ngọ, Thái Tuế năm đó đóng ở phương Tý tức là phạm Thái Tuế. Năm đó thuộc vận 4, hướng tinh ở hướng Tam, thuộc hướng thoái khí; sơn tinh ở hướng Ngũ, phạm “Ngũ Hoàng Chính Quan Sát”. Phi tinh lưu niên của năm đó là Ngũ Hoàng đến hướng, phi tinh lưu niên của năm sau là Ngũ Hoàng đến sơn. Sau khi xây nhà vào ở, không những gia đình hao tốn nhận định mà còn gặp nhiều tai họa.

Như đã trình bày ở trên, phương Thái Tuế tới vốn có khí trường cực mạnh, bản thân nó không phân biệt cát hung mà chỉ tuỳ thuộc vào sự vận dụng có thỏa đáng hay không mà thôi, Dùng nó đúng phép thì vượng càng thêm vượng, như gấm thêu hoa. Dùng không đúng phép thì như bị trói chân trói tay, đã buồn càng thêm thảm.

2–48. TAM SÁT PHƯƠNG TAM SÁT

Tam sát là Tuế sát, Kiếp sát và Tai sát. Vì nó nằm ở vị trí cách nhau nên hai thiên can bị kẹt ở giữa cũng có sát khí gọi là “Giáp sát” hay “Tọa sát”. Tam sát có hai loại là “Niên tam sát” “Nguyệt tam sát”.

“Sát” là sự tương xung tương khắc của hai cung đối nhau, do đó mà tạo nên hung họa. Theo số sinh thành của tiền thiện bát quái:

Nhất hợp Lục (1 + 6) hợp là thuỷ ở phương Bắc, do đó phương Bắc tụ tập thuỷ khí

Cửu hợp Nhị (9 + 2) là hỏa, ở phương nam, do đó phương Nam tụ tập hỏa khí.

Tam hợp Bát (3 + 8) là mộc, ở phương Đông, do đó phương Đông tụ tập mộc khí.

Thất hợp Lục (7 + 6) là kim ở phương Tây, do đó phương Tây tụ tập kim khí.

Ngũ hợp Thập (5 + 10) là thổ, ở trung cung, do đó trung cung tụ tập thổ khí.

Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, là năm loại khí.

Các khí ở vị trí đối nhau, tính chất tương phản, thông qua tác dụng của thổ mà tương khắc tương xung, tạo ra hung sát.

Khí của cung đối nhau tương khắc, thực ra không phải lúc nào cũng tương xung mà tạo ra xung sát, mà phải căn cứ theo năm tháng khác nhau khi nó thịnh vượng mới có.

* Mộc khí của phương Đông, năm Mão là vượng nhất, năm Mão mà vừa lúc Thái Tuế đến Mão tăng mạnh mộc khí làm nó thịnh vượng. Mộc có quy luật sinh trưởng nó là, mộc sinh tại Hợi vượng tại Mão, ẩn tại Mùi. Sinh tại Hợi, mộc được sinh khí, lại thêm Thái Tuế đến Hợi, cho nên sinh khí rất mạnh; vượng tại Mão, lại thêm Thái tuế đến Mão thì vượng càng thêm vượng; ẩn tại Mùi, lại thêm Thái Tuế đến Mùi thì mộ khí của mộc rất thịnh. Hợi Mão Mùi hình thành cuộc mộc tam hợp, ba năm này mộc khí tụ ở phương Mão xung chiếu kim khí cung ở đối diện. Kim mộc đấu nhau, xung sát rất mạnh, cho nên các năm Hợi Mão Mùi xung sát tại phương Tây.

* Thủy khí ở phương Bắc vốn sinh ở Thân, thuỷ được sinh khí, lại thêm Thái Tuế đến Thân khiến sinh khí cực vượng; thuỷ vượng tại Tý, lại thêm Thái Tuế đến Tý khiến vượng khí càng vượng thêm; thuỷ ẩn tại Thìn, lại thêm Thái Tuế Đến Thìn, mộ khí của thuỷ cực thịnh. Thân Tý Thìn hình thành cuộc thuỷ tam hợp. Ba năm này, thuỷ khí tụ tại phương Bắc xung chiếu hỏa khí cung đối diện, thuỷ hỏa đấu nhau, xung sát rất mạnh, cho nên các năm Thân Tý Thìn hung sát tại phương Nam.

* Kim khí của phương Tây vốn sinh ở Tỵ, lại thêm Thái Tuế đến Tỵ, sinh khí rất thịnh; kim vượng tại Dậu, lại thêm Thái Tuế đến Dậu, vượng khí càng vượng; kim ẩn tại Sửu, lại thêm Thái tuế đến Sửu, mộ khí của kim cực thịnh. Tỵ Dậu Sửu hình thành cục kim tam hợp. Ba năm này, kim khí tụ tại phương Dậu xung chiếu mộc khí ở cung đối diện, kim mộc đấu nhau, xung sát rất mạnh, cho nên các năm Tỵ Dậu Sửu hung sát tại phương Đông.

* Hỏa khí của phương Nam, sinh ở Dần, lại thêm Thái Tuế đến Dần sinh khí cực thịnh; hỏa vượng tại Ngọ, lại thêm Thái Tuế đến Ngọ, vượng khí càng vượng; hỏa ẩn tại Tuất, lại thêm

Thái Tuế đến Tuất, mộ khí của hỏa cực thịnh. Dần Ngọ Tuất hình thành cuộc hỏa Tam hợp. Ba năm này, hỏa tụ tại phương Ngọ xung chiếu thuỷ khí ở cung đối diện, hỏa thuỷ đấu nhau, xung sát rất mạnh, cho nên các năm Dần Ngọ Tuất hung sát tại phương Bắc.

Sát khí chuyển dịch theo tháng gọi là “Nguyệt tam Sát”. Nguyên lý tạo ra “sát” cũng giống: “Niên tam sát”. Cụ thể như sau:

Tháng Thân Tý Thìn (tháng 7-11- 3) sát ở ba phương Ty Ngọ Mùi (phương Nam).

Tháng Dần Ngọ Tuất (Tháng 1- 5 – 9) sát ở ba phương Hợi Tý Sửu (phương Bắc). Tháng Ty Dậu Sửu (tháng 4

8 -12) sát ở ba phương Dần Mão Thìn (phương Đông)

Tháng Hợi Mão Mùi (tháng 10- 2- 6) sát ở ba phương Thân Dậu Tuất (phương Tây)

Thông thường, các phương vị “niên tam sát”, “nguyệt tam sát” đều không nên tạo sơn lập hướng để tránh bị khí xung sát gây ra tai họa. Nếu vì hoàn cảnh khách quan bức bách, nhất định phải lập hướng tu sửa xây dựng thì phải nắm chắc tính chất kiêng kỵ của Tam sát. Phương Thái Tuế đóng có thể toa mà không thể hướng vào; phương Tam Sát có thể hướng nào mà không thể tọa. Hai thần sát này trái ngược nhau. Thí dụ như gặp các năm Thân, Tý, Thìn (hoặc tháng Thân, Tý, Thìn), làm nhà ở có thể lấy hướng theo hai trong ba phương đó, mà tránh phương Thái Tuế bay đến. Nếu Thái Tuế ở Thân có thể chọn hai hướng Tý hoặc Thìn; nếu Thái Tuế ở Tý có thể chọn hai phương Thân và Thìn; nếu Thái Tuế tại Thìn, có thể chọn hai phương Thân hoặc Tý, đây gọi là có thể ở hướng.

Vì sao không thể tọa? Bởi vì tai họa của phương Tam sát phải hướng về cung đối diện, nếu bị khí của cung đối diện xung chiếu thẳng, tức phạm xung sát, tai họa sẽ đến liền. Thí dụ các năm Thân Tý Thìn xây nhà tọa Nam hướng Bắc, hướng cửa quay thẳng về phương Bắc, thuỷ khí mạnh của phương Bắc chiếu thẳng về phương Nam xung chiếu cửa Bắc, đó gọi là “tọa sát”, tại họa xông vào nhà, nhất là đối với người có năm sinh thuộc hỏa. Có thể dùng Kỳ lân để hóa giải tam sát.