Kiến thức

Đá Thạch Anh – Đá Đúp Silic Dioxyt (Silica Sinter)

Dưới thuật ngữ “đá lúp silic đioxyt” tôi gộp các đá tạo thành từ cả thạch anh tinh thể kín và các chất đa hình silic đioxyt khác hình thành từ sự kết tủa silic trong dung dịch nước trong một cách địa tầng.

Lưu ý: thuật ngữ “đá lúp” thông thường được sử dụng để miêu tả những lắng đọng của vật chất trong các dòng suối nóng, trong các mạch nước phun, và các lỗ phun khí ở miệng núi lửa- đây đều là những môi trường bề mặt. Do sự tương đồng về cấu trúc và hình thể và do thiếu một thuật ngữ phù hợp, tôi quyết định dùng thuật ngữ trên theo cách hiểu thông thường bất chấp nguồn gốc của đá.

Thuộc tính đặc trưng

Đá lúp silic dioxyt ít đồng nhất hơn so với chalcedony, đá mã não, opan và ngọc thạch anh. Nó cho thấy một cấu trúc xếp tầng phản ánh sự thay đổi trong cấu trúc và thành phần trong suốt quá trình kết tủa. Nó là một vật liệu đặc biệt trong mờ đến mờ đục, sẽ có màu trắng nếu ở dạng tinh khiết nhưng có thể cho màu sắc nào do tạp chất bên dưới. Nó có thể có hình dạng tương tự với đá travertine.

Đá lúp silic dioxyt có thể chứa phần lớn các opan, nhưng cũng có thể được tạo thành chủ yếu bởi các hạt thạch anh hạt tương tự về cấu trúc với ngọc thạch anh. Những vùng nhỏ có thể giả định cấu trúc giống như đá mã não, nhưng trong đa số các trường hợp chúng khác so với đá mã não.

Sự xảy ra

Silic dioxyt thông thường hình thành trong những trường hợp mà các dung dịch giàu silic lạnh nhanh. Việc làm lạnh nhanh giúp cho sự sinh trưởng của các tinh thể lớn hay sự hình thành gel siliclà những điềm báo cho các biến thể chalcedony precursor.

Nó có thể được tìm thấy trong các giếng nước nóng trong đá núi lửa và trong các mạch nước phun do nước quá nóng nguội nhanh trên bề mặt. Một opan hình thành từ đá lúp silic dioxyt được tìm thấy trong các mạch nước phun đôi khi được gọi là geyserite. Đá lúp silic dioxyt có thể được tìm thấy trong các khe nứt và vân đá được lọc qua dung dịch nước giàu silic được làm nóng ở những nơi nóng hơn và cách xa, ví dụ như một ngọn núi lửa ở đó.

Địa điểm và vật mẫu

Mỹ

Những vật mẫu được trình bày đều được tìm thấy trong các đập mỏ và các đáy suối gần Mỏ vàng Homestake cũng là địa điểm có myrickite, phía nam của Clear Lake, California. Bị gây ra do sự giảm của các mảng đại dương (Gorda và Juan de Fuca) bên dưới mảng lục địa Mỹ, phía bắc California có một hoạt động núi lửa trong hàng triệu năm. Dung giảm xuống di chuyển về hướng bắc tới Oregon và Washington, nhưng ảnh hưởng của việc giảm đó và núi lửa vẫn có thể được đo so nhiệt độ của đá ở những độ sâu tương đối nông là rất cao. Nguồn nhiệt được dùng cho sản xuất điện ở các nag máy năng lượng địa nhiệt ở phía nam Geysers- phía tây của Clear Lake.

Vật mẫu gồm những lớp khoáng silic khác nhau hiển nhiên kết tủa liên tiếp từ nước biển trong vân. Vậy nên mặc dù người ta có thể thấy những nhóm, đây không phải một loại đá mã não. Thềm giống đồ sứ tối mờ có thể và vật liệu opan. Những vùng tối hơn chứa chalcedony, và các hốc được phác nét bởi các tinh thể thạch anh. Lưu ý rằng những phần khác nhau của đá cho thấy các khe nứt khác nhau: thềm opan cho thấy một khe nứt trơn, trong khi phần bên trên lại có nhiều lớp có bề mặt nứt sần sùi.

Nhìn cận cảnh các hốc đá và các dải phía bên phải đá trong bức tranh trước, cho thấy chi tiết về các dải và khoang hốc.

Một cảnh chi tiết khác với vật mẫu tương tự. Phía góc phải trên cùng, trên hốc, bạn có thể thấy một dải giống với đá mã não trong một chalcedony màu hơi vàng. Một đá mã não vân vàng từ một đập ở cùng mỏ được trình bày trong trang Đá mã não.

Một ví dụ khác về đá lúp silic dioxyt từ địa điểm tương tự. Các lớp xuất hiện trên mặt phẳng cỡ lớn, nhưng trong cái nhìn gần hơn, chúng cho thấy một cấu trúc gợn song. Cấu trúc bề mặt khá sần, giống như sứ bị vỡ. Đá có một cấu trúc nhiều hang động, và các hốc được phác bởi những tinh thể thạch anh nhỏ.

Cận cảnh vật mẫu trong hình trước. Người ta có thể thấy những lớp mờ dạng hạt thô. Các hốc được phác bởi các tinh thể thạch anh cũng được bao quanh bởi chalcedony mờ với đai xinh.

Mẩu đá lúp silic dioxyt này cho thấy cấu trúc của đá mã não được phát triển trong suốt với một đai đẹp. Nó bị tách ra từ đỉnh của vật mẫu ban đầu.

Myrickite là một đá chalcedony hay ngọc thạch anh bị biến sang màu đỏ do có thủy ngân vùi bên dưới, HgS, và nó có thể được tìm thấy như một phần trong đá lúp silic dioxyt. Thủy ngân khá đặc bột nhưng không thể bị rửa hay bị loại bỏ. Hầu hết các vật mẫu đều cho thấy màu sắc chắp vá. Myrickite có một khe nứt dạng hạt nhưng conchoidal, nên các vết nứt có vẻ mờ. Những phần đá đỏ đậm hoàn toàn mờ đục.

Thủy ngân là một khoáng đặc biệt với những vân thủy nhiệt trong nhiệt độ thấp xảy ra trên các dung có mảng đại dược bị vùi xuống trong sự kiến tạo mảng đại dương. Trong suốt quá trình bị vùi đó, nước bị ép chặt khỏi các mảng do sự tăng nhiệt độ và áp suất, và những dung dịch nước nóng này chuyển động các nguyên tố nhất định như thủy ngân, Hg, chứa trong mảng lục địa lớn phủ bên trên bị lắng xuống ở nhiệt độ thấp gần bề mặt.

Đá lúp silic dioxyt giống đá phiến này hiển nhiên được kết tủa qua vài thế hệ từ dung dịch nước nóng dần trong một vân. Nó chứa nhiều hốc nhỏ, một số còn phác ra với những tinh thể thạch anh nhỏ, một vài trong số đó có bề mặt trong sần sùi.

Vật mẫu phía bên phải được tìm thấy trong một đập ở mỏ Homestake Gold, California, phía nam Clear Lake. Hình ảnh thấp hơn là cái nhìn cận cảnh các mảng đỏ trên cùng trên vật mẫu đó.

 Đá lúp silic dioxyt kết tủa trong những lớp mỏng từ dung dịch nước nóng trong một con suối nóng đôi khi được gọi là geyserite. Thường thì nó chủ yếu gồm có opan, giống như vật mẫu geyserite đến từ hạt Beaver, Utah.

– Phạm Thị Hòa dịch