Kiến thức

Sự phân loại cơ bản của Thạch Anh (SiO2) trên đá núi lửa

 Thuật ngữ “đá lửa” bao gồm cả các đá có“tính nóng” (đẩy ra) và đá sâu (xâm nhập) . khi được phân loại theo thành phần hóa học chung, phần lớn đá sâu có khoáng tương ứng với thành phần tương tự và ngược lại. Tuy nhiên, điều này không thực sự đúng đối với lượng khoáng trong các đá này. Ví dụ, trong khi ở một đá granite, các silic dioxyt tự do dư thừa hoàn toàn được chứa trong các tinh thể thạch anh, trong khi ở đá rhyolite (một phần nóng của đá granite) tất cả các silic dioxyt tự do đều được ràng buộc trong ma trận thủy tinh.

Các thuật ngữ cơ bản dùng trong phân loại đá lửa

Có hai cách tiếp cận khác nhau cho phân loại đá lửa:

  • Dựa trên dung lượng khoáng
  • Dựa trên tính chất hóa học của đá

Cách nào được ưu tiên hơn gần như là một chủ đề thực tiến. Đá plutonic thường được phân loại theoe dung lượng khoáng, do nó có thể nhận rag khoáng và quyết định dung lượng liên quan bằng các phương pháp quang học, và thường bằng sự kiểm duyệt qua thị giác. Đá núi lửa, mặt khác, thường gồm một ma trận thủy tinh hay ma trận sần vùi dưới chúng. Điều này khiên sự nhận định thị giác khó khăn và người ta phải dùng các phương pháp hóa học đề quyết định loại đá.

Hai cặp thuật ngữ tương phản được dùng để biểu thị đặc điểm của đá lửa và cả hai đều liên quan tới tượng silic dioxyt trong đá:

  • acidic ↔  basic
  • felsic ↔  mafic

Do silic dioxyt là một anhydride của axit orthosilicic, đá lửa mà giàu silic dioxyt (hơn 63%) thường được gọi là đá axit, trong khi những đá có hàm lượng silic dioxyt thấp hơn được gọi là đá cơ bản. Đá có lượng silic dioxyt trung bình được gọi là đá trung hòa, và đá có ít hơn 45% silic dioxyt được gọi là đá ultrabasic (xem Fig 4.1). Vậy nên một đá hoàn toàn tạo thành từ orthoclase feldspar (KAlSi3O8) sẽ được gọi là giàu silic dioxyt và có tính axit, do nó chưa 64.8% silic dioxyt (xem bảng 2.1). Một đá peridotite, cấu thành phần lớn từ olivine, (Mg,Fe)2SiO4, được gọi là ultrabasic,do nó chỉ chứa khoảng 40% silic dioxyt. Đá lửa chứa thạch anh gần như chắc chắn chứa đá axit.

Thuật ngữ felsic, một từ tạo thành từ âm đầu của feldspars và silica, đề cập tới các khoáng có màu nhẹ trong một đá lửa mà chỉ được tạo thành từ Si, Al, K, Na, Ca, và O. Nó chưa feldspar và tất nhiên có cả thạch anh, cũng được gọi là foids, viết tắt cho feldspathoids. Foids thay thế một phần hoặc toàn bộ feldspar trong đá có lượng silic dioxyt thấp. Chúng tương tự nhau về hình dáng nhưng khác nhau về cấu trúc và có lượng SiO2 thấp hơn. Sự có mặt của foids trong một đá cho thấy không cso thạch anh trong đá này.

Thuật ngữ “mafic” lúc đầu nhắc tới khoáng giàu magie và sắt. Những khoáng này thường tối màu, đặc biệt nếu chúng chứa nhiều sắt. Nhưng các khoáng mafic thường được định nghĩa rộng hơn và chứa bất kỳ khoáng nào không có felsic, như mica, pyroxene, amphibole, garnet, oxyt và các thành phần nhỏ của đá, như zitcon, apatite, …. Đá chứa nhiều hơn 90% khoáng mafic được gọi là đá ultramafic.

 Những đá màu sáng bị lấn át bởi khoáng felsic có xu hướng là đá axit, và đá với lượng khoáng felsic thấp có khuynh hướng là đá cơ bản. Nhưng đặc biệt với các khoáng felsic, mối quan hệ này thường không phải lúc nào cũng đúng.

– Phạm Thị Hòa dịch