Đá Phong Thủy

Bảng Mệnh Phong Thủy theo Năm Tuổi

Bạn có bao giờ thắc mắc rằng mình sinh ra tại sao lại gắn với những con số mà người ta gọi là “năm sinh” chưa ? Bạn có biết gì về những con số đó và nó ẩn chứa những bí mật gì đằng sau những con số tưởng chừng như đơn giản đấy ?

Bài viết này của chúng tôi sẽ giúp bạn “giải mã” về năm sinh cũng như tuổi của mình theo Phong Thủy Ngũ Hành.

Năm Hệ Ngũ Hành Tên của Năm Cung mệnh Nam/Nữ Giải Nghĩa
1930 Lộ Bàng Thổ : đất giữa đường. Thất Lý Chi Mã : ngựa trong nhà Đoàn Kim / Cấn Thổ Theo như sách ngũ hành phong thủy ghi chép lại thì trong năm này, mệnh Hỏa sẻ trở nên Hỏa vượng bởi Mùi ngũ hành của năm là Thổ Sinh Mộc, khiến cho Ngọ thành Hỏa vượng.

Nhưng điều này lại ngược lại với Thổ, không những không thể vượng mà còn bị tàn, bị trở ngại.

Một cách dễ hiểu là Thổ là cung mệnh sinh Mộc ( đất giúp cây cỏ phát triển tươi tốt, xanh mờn ), nhưng Mộc lại là nguyên nhân tạo ra Hỏa ( cây cháy sẽ tạo ra lửa ), mà lửa lại sẽ là nguyên nhân gây cho đất đai kém màu mỡ, kém phì nhiêu, hay Hỏa làm cho Thổ bị suy tàn.

Chính Thổ sẽ là nguyên nhân tự hại lấy bản thân mình, vì đã tạo ra sự phát triển của cây cối nhưng lại để cây cối phát triển và cháy tạo lửa làm cho đất bị khô cằn, đó cũng là số phận của những mảnh đất ven đường hay còn gọi là “ Lộ Bàng Thổ “.

Nếu  “ Lộ Bàng Thổ “ có thể may mắn gặp được Thủy sẽ thoát được sự khô cằn mà Hỏa mang lại, thậm chí còn có thể phát triển tốt hơn về với đất, về với vạn vật, là nơi sinh trường và phát triển lí tưởng của vạn vật. Hơn thế nữa, nếu được kết hợp với mệnh Kim, sẽ là nơi lí tưởng để tạo nên những cung điện, những khi nghĩ dưỡng sang trọng, những căn nhà ấm áp, giàu tình thương, hạnh phúc, hòa thuận, tạo nên 1 nơi tá túc phồn vinh.

 

1931 Lộ Bàng Thổ : đất giữa đường. Đắc Lộc Chi Dương : dê có lộc. Càn Kim / Ly Hỏa. Cũng tương tự như những nhân thân sinh vào năm 1930, những người sinh trùng 1931 cũng sẽ gặp phải sự tàn phá của Hỏa vì sinh ra Mộc, nhưng được phù trợ bởi Thủy và vinh quang nhờ Kim.

Trong năm này, mệnh Hỏa sẻ trở nên Hỏa vượng bởi Mùi ngũ hành của năm là Thổ Sinh Mộc, khiến cho Ngọ thành Hỏa vượng.

Nhưng điều này lại ngược lại với Thổ, không những không thể vượng mà còn bị tàn, bị trở ngại.

Một cách dễ hiểu là Thổ là cung mệnh sinh Mộc ( đất giúp cây cỏ phát triển tươi tốt, xanh mờn ), nhưng Mộc lại là nguyên nhân tạo ra Hỏa ( cây cháy sẽ tạo ra lửa ), mà lửa lại sẽ là nguyên nhân gây cho đất đai kém màu mỡ, kém phì nhiêu, hay Hỏa làm cho Thổ bị suy tàn.

Chính Thổ sẽ là nguyên nhân tự hại lấy bản thân mình, vì đã tạo ra sự phát triển của cây cối nhưng lại để cây cối phát triển và cháy tạo lửa làm cho đất bị khô cằn, đó cũng là số phận của những mảnh đất ven đường hay còn gọi là “ Lộ Bàng Thổ “.

Nếu  “ Lộ Bàng Thổ “ có thể may mắn gặp được Thủy sẽ thoát được sự khô cằn mà Hỏa mang lại, thậm chí còn có thể phát triển tốt hơn về với đất, về với vạn vật, là nơi sinh trường và phát triển lí tưởng của vạn vật. Hơn thế nữa, nếu được kết hợp với mệnh Kim, sẽ là nơi lí tưởng để tạo nên những cung điện, những khi nghĩ dưỡng sang trọng, những căn nhà ấm áp, giàu tình thương, hạnh phúc, hòa thuận, tạo nên 1 nơi tá túc phồn vinh.

 

1932 Kiếm Phong Kim : Vàng đầu mũi Kiếm. Thanh Tú Chi Hầu : Khỉ thanh tú. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Trùng hợp và có mối tương quan với mệnh Kim, Thân Dậu được xếp và hạng 1 trong những hiện thân của ngũ hành.

Trong quá trình sinh trưởng, vị trí lâm quan của Thân Dậu cũng như của mệnh Kim là Thân, còn vị trí đế vượng là ở Dậu.

Cũng như mọi người đã biết, nếu được sinh ra 1 cách hoàn hảo, sinh ra đúng bài bản và đúng quy trình, không dư cũng không thiếu thì chắc chắn sẽ phát triển bình thường, sẽ vững chãi và bền bỉ với thời gian.

Hãy tưởng tượng điều tương tự với mệnh Kim.

Nếu được tạo ra 1 cách bài bản, nguyên chất, được tôi luyện qua môi trường khắc nghiệt thì chắc chắn sẽ bền vững, siêu bền, siêu cứng, siêu dai với ngoại lực,với thời gian, với mọi tác động từ phía bên ngoài, đây cũng có thể gọi là sự phù trợ, sự trợ giúp to lớn của Hỏa, Hỏa là nguồn động lực to lớn tôi luyện nên sự bền bỉ của Kim.

Tuy nhiên, núi cao còn có núi cao hơn, đó là quy luật, dù có hoàn hảo tới mức nào thì mọi thứ đều có khắc tinh của nó, chính vật đó có thể khắc chế chủ thể Kim, hay thậm chí còn có thể phá hoại cả Kim, đó chính là “ Kiếm Phong Kim “ – “ Đầu Kiếm Vàng “, dù vật có cững, bền bỉ, được tôi luyện gian khổ tới mức nào cũng không thể vượt qua được đầu kiếm vàng.

 

1933 Kiếm Phong Kim : Vàng đầu mũi kiếm. Lâu Túc Kê : Gà nhà gác. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Cũng tương tự như những thân nhân sinh trùng năm 1932, những người sinh năm 1933 sẽ phù hợp với mệnh Kim, được phù trợ, giúp đỡ bởi Hỏa, nhưng cũng sẽ không vượt qua được chính bản thể khác của nó.

Trùng hợp và có mối tương quan với mệnh Kim, Thân Dậu được xếp và hạng 1 trong những hiện thân của ngũ hành.

Trong quá trình sinh trưởng, vị trí lâm quan của Thân Dậu cũng như của mệnh Kim là Thân, còn vị trí đế vượng là ở Dậu.

Cũng như mọi người đã biết, nếu được sinh ra 1 cách hoàn hảo, sinh ra đúng bài bản và đúng quy trình, không dư cũng không thiếu thì chắc chắn sẽ phát triển bình thường, sẽ vững chãi và bền bỉ với thời gian.

Hãy tưởng tượng điều tương tự với mệnh Kim.

Nếu được tạo ra 1 cách bài bản, nguyên chất, được tôi luyện qua môi trường khắc nghiệt thì chắc chắn sẽ bền vững, siêu bền, siêu cứng, siêu dai với ngoại lực,với thời gian, với mọi tác động từ phía bên ngoài, đây cũng có thể gọi là sự phù trợ, sự trợ giúp to lớn của Hỏa, Hỏa là nguồn động lực to lớn tôi luyện nên sự bền bỉ của Kim.

Tuy nhiên, núi cao còn có núi cao hơn, đó là quy luật, dù có hoàn hảo tới mức nào thì mọi thứ đều có khắc tinh của nó, chính vật đó có thể khắc chế chủ thể Kim, hay thậm chí còn có thể phá hoại cả Kim, đó chính là “ Kiếm Phong Kim “ – “ Đầu Kiếm Vàng “, dù vật có cững, bền bỉ, được tôi luyện gian khổ tới mức nào cũng không thể vượt qua được đầu kiếm vàng.

 

1934 Sơn Đầu Hỏa : Lửa trên núi. Thủ Thân Chi Cẩu : Chó giữ lấy mình. Chấn Mộc /  Chấn Mộc. Là hiện thân của Của Trời là Tuất Hợi, kết hợp với việc Giáp Ất thuộc Mộc cho nên có thể có khả năng đốt lửa soi sáng cả cửa trời. Ánh lửa của Tuất Hợi kết hợp với Giáp Ất chắc chắn sẽ bốc lên cực cao mới có thể làm cho cả vùng trời, bao gồm cả cửa trời có thể sáng lóa hơn bao giờ hết.

Điều đó giải nghĩa cho việc tại sao nó lại có tên là Lửa trên núi ( núi được xem là ranh giới giữa trời và đất, là nơi gần với ánh mặt trời nhất ở trần gian ).

Lửa trên núi sẽ khắc họa rõ nhất sự tỏa sáng của ánh mặt trời vào chiều tà, khi mà mặt trời dần xuống núi, ánh mặt trời ở mức tỏa sáng thấp nhất, nhưng, với ánh lửa của Tuất Hợi và Giáp Ất, ánh sáng đó sẽ phát tinh quân, tỏa sáng hơn bất cứ thứ gì trên bầu trời lúc chiều tà.

Lửa trên núi ( Sơn đầu Hỏa ) là khu vực có thể thông với trời, gần với trời nhất nên mệnh này rất may mắn và giàu sang, mệnh này rất quý và chắc chắn sẽ phồn vinh, phát triển trong tương lai.

Lưu ý rằng, Núi phải có cây như Sơn phải có Mộc, phải phát Hỏa tại vị trí đỉnh núi mới có thể tạo ra 1 đợt ánh sáng lung linh nhất của mặt trời, nếu chỉ có Mộc mà không có Hỏa thì ánh mặt trời cũng không tỏa sáng hết công suất của nó. Còn nếu có Hỏa nhưng không có Mộc thì đó cũng chỉ là 1 ánh lửa nhá nhem, không phát quang được ánh mặt trời, không chạm được sức nóng của mình đến với cổng trời.

Lửa ở núi chắc chắn sẽ khắc Thủy, cho nên nếu gặp phải đại hải thủy ngay lúc lửa chạm đến cổng trời thì đó là điều đáng lo ngại, tại họa sắp đến và mang lại tai kiếp khủng khiếp, cũng như mệnh Tuất Hợp – Giáp Ất gặp phải khắc tinh Nhâm Tuất – Quý Hợi.

 

1935 Sơn Đầu Hỏa : Lửa trên núi. Quá Vãng Chi Trư : Lợn hay đi. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Tương quan với những người sinh năm 1934, người mang mệnh 1935 là Tuất Hợt và Giáp Ất sẽ phát triển nếu gặp quý nhân mệnh Hỏa, nhưng sẽ gặp phải hung thần là người mệnh Thủy, khắc tinh là Nhâm Tuất – Quý Hợi.

Là hiện thân của Của Trời là Tuất Hợi, kết hợp với việc Giáp Ất thuộc Mộc cho nên có thể có khả năng đốt lửa soi sáng cả cửa trời. Ánh lửa của Tuất Hợi kết hợp với Giáp Ất chắc chắn sẽ bốc lên cực cao mới có thể làm cho cả vùng trời, bao gồm cả cửa trời có thể sáng lóa hơn bao giờ hết.

Điều đó giải nghĩa cho việc tại sao nó lại có tên là Lửa trên núi ( núi được xem là ranh giới giữa trời và đất, là nơi gần với ánh mặt trời nhất ở trần gian ).

Lửa trên núi sẽ khắc họa rõ nhất sự tỏa sáng của ánh mặt trời vào chiều tà, khi mà mặt trời dần xuống núi, ánh mặt trời ở mức tỏa sáng thấp nhất, nhưng, với ánh lửa của Tuất Hợi và Giáp Ất, ánh sáng đó sẽ phát tinh quân, tỏa sáng hơn bất cứ thứ gì trên bầu trời lúc chiều tà.

Lửa trên núi ( Sơn đầu Hỏa ) là khu vực có thể thông với trời, gần với trời nhất nên mệnh này rất may mắn và giàu sang, mệnh này rất quý và chắc chắn sẽ phồn vinh, phát triển trong tương lai.

Lưu ý rằng, Núi phải có cây như Sơn phải có Mộc, phải phát Hỏa tại vị trí đỉnh núi mới có thể tạo ra 1 đợt ánh sáng lung linh nhất của mặt trời, nếu chỉ có Mộc mà không có Hỏa thì ánh mặt trời cũng không tỏa sáng hết công suất của nó. Còn nếu có Hỏa nhưng không có Mộc thì đó cũng chỉ là 1 ánh lửa nhá nhem, không phát quang được ánh mặt trời, không chạm được sức nóng của mình đến với cổng trời.

Lửa ở núi chắc chắn sẽ khắc Thủy, cho nên nếu gặp phải đại hải thủy ngay lúc lửa chạm đến cổng trời thì đó là điều đáng lo ngại, tại họa sắp đến và mang lại tai kiếp khủng khiếp, cũng như mệnh Tuất Hợp – Giáp Ất gặp phải khắc tinh Nhâm Tuất – Quý Hợi.

 

1936 Giãn Hạ Thủy : Nước dưới khe. Điền Nội Chi Thử : Chuột trong ruộng. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Thịnh vượng ở Tí, suy yếu dần ở Sửu, đó là số mệnh của Thủy trong ngũ hành các năm cho nên Thủy trong Bính Tý Đinh Sửu không thể gọi là nước ở sông , nước ở biển mà là nước ở khe suối, vì nó đã bị suy yếu dần khi thời gian trôi dần về sau.

Khi mới hình thành, mới bắt đầu được sinh ra thì thánh thót, lăn tăn, gợn song, rồi dần dần hợp lại với các dòng chảy khác, hợp với những dòng nước khác tạo thành dòng nước chảy xiết nhưng không may mắn va phải nhiều trở ngại, đá cây mà bị phân tách, tung tóe thành những mảnh nhỏ như hạt tuyết. cuối cùng số phận của Giãn Hạ Thủy là tích hợp các tinh thể trôi về hạ lưu của nhiều nhánh khác nhau, không thống nhất được lại với nhau mà cứ tách ra dần từ 1 khối lớn thành các khối nhỏ dần nhỏ dần và bị hòa tan ở hạ lưu.

Với hình dạng của khe nước thì hình dạng của Giãn Hạ Thủy chắc chắn sẽ là mảnh khảnh, thanh mảnh, mềm yếu, thon thả và dế bị phân hủy.

Theo như trong sách phong thủy thì mệnh Thủy phù hợp với Kim, phù hợp gặt cát và kim lưỡi kiếm  ( Giáp ngọ ất mùi sa trung kim , nhâm thân quý dậu kim lưỡi kiếm ) nhưng Thủy lại khắc với Hỏa và Thổ. Thủy và Hỏa vốn là 2 thái cực, vốn chẳng thể hòa thuận chẳng thể nào về chung 1 nhà, Thổ lại là tác nhân là cho Thủy thêm bẩn thêm đục, thêm dơ, cho nên cần phải tránh gặp mặt, quen biết 2 mệnh này ( Hỏa Thổ ).

Tốt nhất đối với người mệnh này vẫn là Giáp Dần – Ất Mão ( giáp dần ất mão đại khuê thủy ), đây là các mệnh tương hợp, có thể giúp đỡ nhau phát triển, hợp lại với nhau thành 1 nhánh sông lớn hay còn gọi là 1 con suối nhỏ, từ đó chảy dần về các con sông lớn hơn, càng chảy càng dài mà chẳng cần phải lo nghĩ bị phá hủy hay phân thành những mãnh nhỏ hơn.

 

1937 Giãn Hạ Thủy : Nước dưới khe. Hồ Nội Chi Ngưu : Trâu trong hồ nước. Ly Hỏa / Càn Kim. Thịnh vượng ở Tí, suy yếu dần ở Sửu, đó là số mệnh của Thủy trong ngũ hành các năm cho nên Thủy trong Bính Tý Đinh Sửu không thể gọi là nước ở sông , nước ở biển mà là nước ở khe suối, vì nó đã bị suy yếu dần khi thời gian trôi dần về sau.

Khi mới hình thành, mới bắt đầu được sinh ra thì thánh thót, lăn tăn, gợn song, rồi dần dần hợp lại với các dòng chảy khác, hợp với những dòng nước khác tạo thành dòng nước chảy xiết nhưng không may mắn va phải nhiều trở ngại, đá cây mà bị phân tách, tung tóe thành những mảnh nhỏ như hạt tuyết. cuối cùng số phận của Giãn Hạ Thủy là tích hợp các tinh thể trôi về hạ lưu của nhiều nhánh khác nhau, không thống nhất được lại với nhau mà cứ tách ra dần từ 1 khối lớn thành các khối nhỏ dần nhỏ dần và bị hòa tan ở hạ lưu.

Với hình dạng của khe nước thì hình dạng của Giãn Hạ Thủy chắc chắn sẽ là mảnh khảnh, thanh mảnh, mềm yếu, thon thả và dế bị phân hủy.

Theo như trong sách phong thủy thì mệnh Thủy phù hợp với Kim, phù hợp gặt cát và kim lưỡi kiếm  ( Giáp ngọ ất mùi sa trung kim , nhâm thân quý dậu kim lưỡi kiếm ) nhưng Thủy lại khắc với Hỏa và Thổ. Thủy và Hỏa vốn là 2 thái cực, vốn chẳng thể hòa thuận chẳng thể nào về chung 1 nhà, Thổ lại là tác nhân là cho Thủy thêm bẩn thêm đục, thêm dơ, cho nên cần phải tránh gặp mặt, quen biết 2 mệnh này ( Hỏa Thổ ).

Tốt nhất đối với người mệnh này vẫn là Giáp Dần – Ất Mão ( giáp dần ất mão đại khuê thủy ), đây là các mệnh tương hợp, có thể giúp đỡ nhau phát triển, hợp lại với nhau thành 1 nhánh sông lớn hay còn gọi là 1 con suối nhỏ, từ đó chảy dần về các con sông lớn hơn, càng chảy càng dài mà chẳng cần phải lo nghĩ bị phá hủy hay phân thành những mãnh nhỏ hơn.

1938 Thành Đầu Thổ : Đất trên thành. Quá Sơn Chi Hổ : Hổ qua rừng. Cấn Thổ / Đoài Kim. Theo như ngũ hành, 1 trong những mệnh thuộc Thổ và Mộc theo thứ tự là Thiên Can – Mậu Kĩ , Dần – Mão.

Cũng giống như việc tích đất thành núi, càng nhiều đất đai được bù đắp vào ( thổ thịnh ) sẽ phát triển thành núi,  mà khi phát triển thành núi thì không thể thiếu vắng sự góp mặt của cây cối ( sinh Mộc ), hay có thể hiểu ở 1 phạm vi nhỏ hơn, đó là dùng đất ( Thổ ) để xây dựng nên những bức tường thành, những nơi an cư lạc nghiệp, xây dựng nên mái ấm gia đình cũng từ đất và cây ( Thổ – Mộc ).

Điều này đã được minh chứng từ xưa, khi các nhà vua dùng Đất và Cây ( Thổ và Mộc ) để xây dựng cung điện, xây dựng những tòa thành vững chải và những tượng đài nguy nga, hàng trăm bức tượng sư tử được hình thành, hàng trăm con rồng được tạo ra bay  lượn hàng trăm dặm quanh các tòa thành, cung điện, hình tượng mãnh hỗ cũng từ đó được dựng nên, tọa thế trấn cả 4 phương trời.

Tuy nhiên, mệnh này nếu gặp nước, gặp núi là hiển quy. Nếu ở trong thành mà gặp phải núi, gặp phải nước thì chắc chắn núi giả, nước tù thì càng không phải là quý hiếm gì. Cho nên mệnh này nên kỵ với  Nhâm Tuất – Quý Hợi ( Đại Hải Thủy ) , Mậu Tý – Kỉ Sửu ( Bích Lôi Hỏa , Tích Lịch Hỏa ).

1939 Thành Đầu Thổ : Đất trên thành. Sơn Lâm Chi Mão : Mèo ở rừng. Đoài Kim / Cấn Thổ. Cũng tương tự như những người được sinh vào năm 1938, những người sinh vào năm 1939 cũng sẽ phù hợp với Mộc – Thổ, kị với Thủy Hỏa.

Theo như ngũ hành, 1 trong những mệnh thuộc Thổ và Mộc theo thứ tự là Thiên Can – Mậu Kĩ , Dần – Mão.

Cũng giống như việc tích đất thành núi, càng nhiều đất đai được bù đắp vào ( thổ thịnh ) sẽ phát triển thành núi,  mà khi phát triển thành núi thì không thể thiếu vắng sự góp mặt của cây cối ( sinh Mộc ), hay có thể hiểu ở 1 phạm vi nhỏ hơn, đó là dùng đất ( Thổ ) để xây dựng nên những bức tường thành, những nơi an cư lạc nghiệp, xây dựng nên mái ấm gia đình cũng từ đất và cây ( Thổ – Mộc ).

Điều này đã được minh chứng từ xưa, khi các nhà vua dùng Đất và Cây ( Thổ và Mộc ) để xây dựng cung điện, xây dựng những tòa thành vững chải và những tượng đài nguy nga, hàng trăm bức tượng sư tử được hình thành, hàng trăm con rồng được tạo ra bay  lượn hàng trăm dặm quanh các tòa thành, cung điện, hình tượng mãnh hỗ cũng từ đó được dựng nên, tọa thế trấn cả 4 phương trời.

Tuy nhiên, mệnh này nếu gặp nước, gặp núi là hiển quy. Nếu ở trong thành mà gặp phải núi, gặp phải nước thì chắc chắn núi giả, nước tù thì càng không phải là quý hiếm gì. Cho nên mệnh này nên kỵ với  Nhâm Tuất – Quý Hợi ( Đại Hải Thủy ) , Mậu Tý – Kỉ Sửu ( Bích Lôi Hỏa , Tích Lịch Hỏa ).

 

1940 Bạch Lạp Kim : Vàng trong nền rắn. Thứ Tính Chi Long : Rồng khoan dung. Càn Kim / Ly Hỏa. Mệnh Kim được hình thành trong đất ( hay còn gọi là Mộc sinh Kim ). Nhưng sau đó thì Kim phải ở cùng với Hỏa để có thể có được hình thái hoàn mỹ nhất, cứng cỏi nhất.

Lúc đầu, khi mới được hình thành và chưa đạt được hình thái hoàn mỹ nhất, Kim được gọi là Kim giá đèn, tức chỉ được dùng để treo những vật nhẹ, còn yếu ớt, chưa thật sự cứng cáp và vững vàng.

Khi khí của Kim vừa mới hình thành và phát triển, Kim giao thoa, phối hợp với tinh hoa của Âm dương, đất trời, tạo nên khí thịnh.

Khi vừa hình thành Kim giá đèn thích ứng với Thủy và tương hợp với Thủy như Canh thìn, Tân Tỵ  gặp được Ất Tỵ, có thể ví như hổ thêm cánh, “ Mãnh hỗ phong cánh “, cuộc sống, thi cử, học tập, công việc trở nên suôn sẻ, tốt đẹp, thuận tiện và phát triển cao xa hơn.

Thích hợp nhất với Kim sẽ là Ất Dậu và Quý Tỵ. Trong ngũ hành số mệnh, người ta gọi đó là Quý Mệnh.

Bởi vì Bạch Lạp Kim tính vốn yếu ớt, dễ vỡ cho nên sẽ khắc với Mộc, sợ Mộc, trừ khi Bạch Lạp Kim gặp phải Hỏa yếu, gặp phải lửa suy mới cần phải có sự trợ giúp ngược lại của Mộc, dựa vào Mộc để phát huy thêm sức mạnh của Hỏa, từ đó gia tăng thêm sự vững bền của Bạch Lạp Kim.

1941 Bạch Lạp Kim : Vàng trong nền rắn. Đông Tàn Chi Xà : Rắn ngủ đông. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Cũng giống như năm 1940, những người sinh năm 1941 sẽ thích hợp với người mệnh Hỏa, nhờ hỏa để phát triển tốt hơn, nếu gặp hỏa yếu thì cần phối hợp với mộc để tăng cường năng lực.

Mệnh Kim được hình thành trong đất ( hay còn gọi là Mộc sinh Kim ). Nhưng sau đó thì Kim phải ở cùng với Hỏa để có thể có được hình thái hoàn mỹ nhất, cứng cỏi nhất.

Lúc đầu, khi mới được hình thành và chưa đạt được hình thái hoàn mỹ nhất, Kim được gọi là Kim giá đèn, tức chỉ được dùng để treo những vật nhẹ, còn yếu ớt, chưa thật sự cứng cáp và vững vàng.

Khi khí của Kim vừa mới hình thành và phát triển, Kim giao thoa, phối hợp với tinh hoa của Âm dương, đất trời, tạo nên khí thịnh.

Khi vừa hình thành Kim giá đèn thích ứng với Thủy và tương hợp với Thủy như Canh thìn, Tân Tỵ  gặp được Ất Tỵ, có thể ví như hổ thêm cánh, “ Mãnh hỗ phong cánh “, cuộc sống, thi cử, học tập, công việc trở nên suôn sẻ, tốt đẹp, thuận tiện và phát triển cao xa hơn.

Thích hợp nhất với Kim sẽ là Ất Dậu và Quý Tỵ. Trong ngũ hành số mệnh, người ta gọi đó là Quý Mệnh.

Bởi vì Bạch Lạp Kim tính vốn yếu ớt, dễ vỡ cho nên sẽ khắc với Mộc, sợ Mộc, trừ khi Bạch Lạp Kim gặp phải Hỏa yếu, gặp phải lửa suy mới cần phải có sự trợ giúp ngược lại của Mộc, dựa vào Mộc để phát huy thêm sức mạnh của Hỏa, từ đó gia tăng thêm sự vững bền của Bạch Lạp Kim.

1942 Dương Liễu Mộc : Cây dương liễu. Quân Trung Chi Mã : Ngựa chiến trung thần. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Mộc tử ở Ngọ mộ, tàn ở Mùi.

Một khi Mộc đã tử, đã dựng nên mộ tang, thì chỉ còn cách dùng Thiên Can Nhâm Quý Thủy để cứu sống nó trở lại như thuyết ngũ hành đã đề cập.

Nhưng rốt cuộc thì sau khi được cứu sống dậy, với sức sống mới được hình thành, Mộc vẫn chỉ là sơ sinh, vẫn còn yếu ớt và non kém, vẫn cần rất nhiều đến sự giúp đỡ của Thổ để trở nên vững bền hơn, mạnh mẽ hơn và sức chịu đựng tốt hơn. Nó cũng giống như tằm, nhả vạn mối dây tơ thì nếu nằm riêng lẻ và mới được phóng ra, nó vẫn là những nợi mảnh khảnh nhỏ và dễ đứt, cho đến khi có nhiều sợi hợp lại và tạo nên 1 khối bền vững.

Cây Dương Liễu ( tức Dương Liễu Mộc ) chỉ thích hợp với các mệnh Bính Tuất, Đinh Hợi thổ, nhưng nó lại thích ứng với Thủy, nếu gặp thủy lành, thủy tốt, sẽ làm cho thổ tốt, thổ giàu sẽ chia sẻ cho mộc, làm mộc phát triển.

Trừ Đại Hải Thủy ra, Dương Liễu Mộc có thể kết hợp hoàn hảo với các mệnh Thủy để phát triển mạnh mẽ, bền vững hơn.

Bản tấy Dương Liễu Mộc dù sao cũng là cây cỏ, cho nên dễ bị phá hủy, bị thiêu rụi bởi Hỏa, nếu gặp phải những người mệnh Hỏa như Canh Thìn, Tân Dậu thạch lựu mộc sẽ bị sự thịnh vượng của cây thạch lựu áp chế, khiến cho cây dương liễu bị áp chế, 1 đời bần tiện, cuộc sống bôn ba, khó khăn vất vả, khó có thể giàu sang.

1943 Dương Liễu Mộc : Cây dương liễu. Quần Nội Chi Dương : Dê trong bầy đàn. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Cũng có thể so sánh và thấy sự tương đồng của năm 1942 và 1943 cũng là Dương Liễu Mộc, cũng là sự yếu đuối nhưng thịnh vượng nhờ Thổ và suy yếu do thạch lựu, bị tàn phá do Hỏa.

Mộc tử ở Ngọ mộ, tàn ở Mùi.

Một khi Mộc đã tử, đã dựng nên mộ tang, thì chỉ còn cách dùng Thiên Can Nhâm Quý Thủy để cứu sống nó trở lại như thuyết ngũ hành đã đề cập.

Nhưng rốt cuộc thì sau khi được cứu sống dậy, với sức sống mới được hình thành, Mộc vẫn chỉ là sơ sinh, vẫn còn yếu ớt và non kém, vẫn cần rất nhiều đến sự giúp đỡ của Thổ để trở nên vững bền hơn, mạnh mẽ hơn và sức chịu đựng tốt hơn. Nó cũng giống như tằm, nhả vạn mối dây tơ thì nếu nằm riêng lẻ và mới được phóng ra, nó vẫn là những nợi mảnh khảnh nhỏ và dễ đứt, cho đến khi có nhiều sợi hợp lại và tạo nên 1 khối bền vững.

Cây Dương Liễu ( tức Dương Liễu Mộc ) chỉ thích hợp với các mệnh Bính Tuất, Đinh Hợi thổ, nhưng nó lại thích ứng với Thủy, nếu gặp thủy lành, thủy tốt, sẽ làm cho thổ tốt, thổ giàu sẽ chia sẻ cho mộc, làm mộc phát triển.

Trừ Đại Hải Thủy ra, Dương Liễu Mộc có thể kết hợp hoàn hảo với các mệnh Thủy để phát triển mạnh mẽ, bền vững hơn.

Bản tấy Dương Liễu Mộc dù sao cũng là cây cỏ, cho nên dễ bị phá hủy, bị thiêu rụi bởi Hỏa, nếu gặp phải những người mệnh Hỏa như Canh Thìn, Tân Dậu thạch lựu mộc sẽ bị sự thịnh vượng của cây thạch lựu áp chế, khiến cho cây dương liễu bị áp chế, 1 đời bần tiện, cuộc sống bôn ba, khó khăn vất vả, khó có thể giàu sang.

 

1944 Tuyền Trung Thủy : Dưới giữa dòng suối. Quá Thụ Chi Hầu : Khỉ leo cây. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Đối với Kim kiếm, lộc của nó sẽ nằm ở Thân, vượng sẽ ở Dậu.

Kim sau khi phát triển bền vững, nhận được độ cứng ổn định, đủ vững vàng, đủ cứng cáp sẽ có thể dựa vào Hỏa để sinh Thủy. Nhưng hãy thử nghĩ xem, khi mà Kim kết hợp với Hỏa tạo ra Thủy thì chắc chắn đây không thể nào là Thủy vượng được, đó là Thủy tàn. Trong lúc vừa được tạo ra bởi Kim và Hỏa, Thủy này chỉ là 1 lượng ít ỏi,  cho nên sẽ được gọi là nước trong suối.

Còn nếu nói theo phong thủy thì có Kim, Thủy sẽ không bao giờ ngừng tạo ra và ngừng chảy, đó là theo tính chất cơ bản của nó, được hiểu ra từ nguồn gốc của nó.

Lấy Giáp Ngọ – Ất Mùi sa trung kim, Canh Tuất – Tân Hợi thoa xuyến kim là tốt nhất, hay nếu vô tình có thể gặp được Thủy hoặc Mộc cũng tốt.

Tuy nhiên, sẽ là hiếm hoi hơn nếu những người được sinh vào tứ trụ theo năm tháng ngày giờ. Năm và giờ đều có trụ là Thủy, ngày tháng, cả 2 đầu có trụ Mộc. Đây được gọi là người có mệnh Đại Phú Quý, sẽ mau chóng giàu có, may mắn, hạnh phúc, sự nghiệp phất lên như diều gặp gió, danh tiếng vang vọng 1 đời.

 

1945

 

Tuyền Trung Thủy : Nước giữa dòng sông.

 

Xướng Ngọ Chi Kê : Gà gáy trưa.

 

Khảm Thủy / Cấn Thổ.

 

Cũng là sự tương đồng với những người sinh năm 1944, những người sinh năm 1945 cũng sẽ thích hợp với mệnh Kim, sẽ là phù trợ đắc lực cho Thủy và có mệnh đại phú quý với tứ trụ.

Đối với Kim kiếm, lộc của nó sẽ nằm ở Thân, vượng sẽ ở Dậu.

Kim sau khi phát triển bền vững, nhận được độ cứng ổn định, đủ vững vàng, đủ cứng cáp sẽ có thể dựa vào Hỏa để sinh Thủy. Nhưng hãy thử nghĩ xem, khi mà Kim kết hợp với Hỏa tạo ra Thủy thì chắc chắn đây không thể nào là Thủy vượng được, đó là Thủy tàn. Trong lúc vừa được tạo ra bởi Kim và Hỏa, Thủy này chỉ là 1 lượng ít ỏi,  cho nên sẽ được gọi là nước trong suối.

Còn nếu nói theo phong thủy thì có Kim, Thủy sẽ không bao giờ ngừng tạo ra và ngừng chảy, đó là theo tính chất cơ bản của nó, được hiểu ra từ nguồn gốc của nó.

Lấy Giáp Ngọ – Ất Mùi sa trung kim, Canh Tuất – Tân Hợi thoa xuyến kim là tốt nhất, hay nếu vô tình có thể gặp được Thủy hoặc Mộc cũng tốt.

Tuy nhiên, sẽ là hiếm hoi hơn nếu những người được sinh vào tứ trụ theo năm tháng ngày giờ. Năm và giờ đều có trụ là Thủy, ngày tháng, cả 2 đầu có trụ Mộc. Đây được gọi là người có mệnh Đại Phú Quý, sẽ mau chóng giàu có, may mắn, hạnh phúc, sự nghiệp phất lên như diều gặp

gió, danh tiếng vang vọng 1 đời.

1946 Ốc Thượng Thổ : Đất trên nóc nhà. Tự Miên Chi Cẩu : Chó đang ngủ. Ly Hỏa / Càn Kim. Xét theo như sách phong thủy thì Bính Đinh thuộc mệnh Hỏa, còn Tuất Hợi thì được ví như là đôi cánh của trời. Lửa đang bốc cháy ngùn ngụt, nghi ngút và mạnh mẽ như vậy nhưng tuyệt nhiên không ở dưới mặt đất mà lại là trên trời thì mặt đất, hay còn gọi là Thổ lúc này không phải là Thổ ở dưới đất nữa, nếu ở dưới đất sẽ không thể nào phò trợ, tiếp cận với Hỏa được,  Thổ này phải ở trên cao nên được gọi là Ốc Thượng Thổ ( Đất Trên Nóc Nhà ).

Nghe đến đây thì sẽ có nhiều mâu thuẫn, bởi đất làm sao có thể ở trên nóc nhà được, phải chăng lấy đất lợp trên mái nhà để tạo ra Ốc Thượng Thổ ?

Thực tế mà nói, trên mái nhà, luôn luôn là gạch, ngói, mà gạch ngói thì từ đâu ra, gạch ngói chính từ Thổ mà ra.

Tuất Hợi thì ví như Thổ, gặp phải thủy lại hóa thành bùn, đất để lâu kết hợp với nước sẽ bị mềm dẽo hóa, đất lúc này không còn cứng cáp nữa mà dễ dàng bị nhào nặn, tác động bên ngoài để thay đổi hình dáng. Nhưng nếu kết hợp giữ Thổ, Thủy và Hỏa, dưới sức nóng của Hỏa, những mảnh đất bị tác động bởi Thủy ( gọi tắt là Bùn ) sẽ được cô đặc lại, cấu trúc trở nên bền vững hơn, bề ngoài cứng cáp, vững vàng hơn, từ đó bùn mới có thể thành gạch, thành ngói để xây nhà, lợp phòng, lợp mái nhà.

Vì đất trên nhà đã là gạch, ngói, nhưng nếu chỉ riêng là gạch ngói thì không thể vững vàng trên mái mãi được, “ Thổ “ này cần sự giúp đỡ to lớn của Mộc để vững vàng hơn, tồn tại lâu dài hơn. Mộc sẽ là giá đỡ vững chải cho Ốc Thượng Thổ, sau đó có thể dùng Kim để tô điểm thêm cho Ốc Thượng Thổ, tăng thêm vẻ đẹp bên ngoài của nó.

Thổ trên mái nhà mà đính đầy Kim vàng, Kim huy hoàng thì là 1 điều đại cát đại quý, vận may phú quý muôn đời. Cho nên nếu mệnh Ốc Thượng Thổ này gặp phải Kim Phong Kiếm hoặc Kim Trang Sức đều sẽ là đại cát phú quý, đại lợi muôn đời.

Mặc dù suy cho cùng thì Ốc Thượng Thổ cũng sẽ sợ Hỏa, bởi nếu Hỏa quá thịnh thì dù có là Thổ được bọc Kim, Thổ được tôi luyện bền bỉ với thủy và Hỏa thì cũng sẽ bị thiêu rụi bởi sức nóng to lớn mà Hỏa thịnh tạo ra, nhưng nếu Hỏa thịnh đó là Thiên Thượng Hỏa thì lại là điều lành cho Ốc Thượng Thổ, vì dù là năng lượng từ Hỏa này rất lớn, nhưng đây là Hỏa lành, không đem lại tác hại lớn tới mức phá hủy Ốc Thượng Thổ, đây là 1 ánh lửa tốt, tượng trưng cho ánh nắng của mặt trời, chan hòa, ấm áp, mang lại ánh sáng cho khắp phương trời, còn gọi là mệnh phù trợ.

1947 Ốc Thượng Thổ : Đất trên nóc nhà. Quá Sơn Chi Trư : Lợn qua núi. Cấn Thổ / Đoài Kim. Được sanh là tương tự với Ốc Thượng Thổ của năm 1946, những người sinh năm 1947 cũng sẽ nhận được số mệnh tương tự khi qua sự tôi luyện của Thủy và Hỏa nhưng nếu là Hỏa thịnh thượng thì khác mà Thiên Thượng Hỏa thì sẽ khác.

Xét theo như sách phong thủy thì Bính Đinh thuộc mệnh Hỏa, còn Tuất Hợi thì được ví như là đôi cánh của trời. Lửa đang bốc cháy ngùn ngụt, nghi ngút và mạnh mẽ như vậy nhưng tuyệt nhiên không ở dưới mặt đất mà lại là trên trời thì mặt đất, hay còn gọi là Thổ lúc này không phải là Thổ ở dưới đất nữa, nếu ở dưới đất sẽ không thể nào phò trợ, tiếp cận với Hỏa được,  Thổ này phải ở trên cao nên được gọi là Ốc Thượng Thổ ( Đất Trên Nóc Nhà ).

Nghe đến đây thì sẽ có nhiều mâu thuẫn, bởi đất làm sao có thể ở trên nóc nhà được, phải chăng lấy đất lợp trên mái nhà để tạo ra Ốc Thượng Thổ ?

Thực tế mà nói, trên mái nhà, luôn luôn là gạch, ngói, mà gạch ngói thì từ đâu ra, gạch ngói chính từ Thổ mà ra.

Tuất Hợi thì ví như Thổ, gặp phải thủy lại hóa thành bùn, đất để lâu kết hợp với nước sẽ bị mềm dẽo hóa, đất lúc này không còn cứng cáp nữa mà dễ dàng bị nhào nặn, tác động bên ngoài để thay đổi hình dáng. Nhưng nếu kết hợp giữ Thổ, Thủy và Hỏa, dưới sức nóng của Hỏa, những mảnh đất bị tác động bởi Thủy ( gọi tắt là Bùn ) sẽ được cô đặc lại, cấu trúc trở nên bền vững hơn, bề ngoài cứng cáp, vững vàng hơn, từ đó bùn mới có thể thành gạch, thành ngói để xây nhà, lợp phòng, lợp mái nhà.

Vì đất trên nhà đã là gạch, ngói, nhưng nếu chỉ riêng là gạch ngói thì không thể vững vàng trên mái mãi được, “ Thổ “ này cần sự giúp đỡ to lớn của Mộc để vững vàng hơn, tồn tại lâu dài hơn. Mộc sẽ là giá đỡ vững chải cho Ốc Thượng Thổ, sau đó có thể dùng Kim để tô điểm thêm cho Ốc Thượng Thổ, tăng thêm vẻ đẹp bên ngoài của nó.

Thổ trên mái nhà mà đính đầy Kim vàng, Kim huy hoàng thì là 1 điều đại cát đại quý, vận may phú quý muôn đời. Cho nên nếu mệnh Ốc Thượng Thổ này gặp phải Kim Phong Kiếm hoặc Kim Trang Sức đều sẽ là đại cát phú quý, đại lợi muôn đời.

Mặc dù suy cho cùng thì Ốc Thượng Thổ cũng sẽ sợ Hỏa, bởi nếu Hỏa quá thịnh thì dù có là Thổ được bọc Kim, Thổ được tôi luyện bền bỉ với thủy và Hỏa thì cũng sẽ bị thiêu rụi bởi sức nóng to lớn mà Hỏa thịnh tạo ra, nhưng nếu Hỏa thịnh đó là Thiên Thượng Hỏa thì lại là điều lành cho Ốc Thượng Thổ, vì dù là năng lượng từ Hỏa này rất lớn, nhưng đây là Hỏa lành, không đem lại tác hại lớn tới mức phá hủy Ốc Thượng Thổ, đây là 1 ánh lửa tốt, tượng trưng cho ánh nắng của mặt trời, chan hòa, ấm áp, mang lại ánh sáng cho khắp phương trời, còn gọi là mệnh phù trợ.

 

1948 Tích Lịch Hỏa : Lửa Sấm Sét. Thương Nội Chi Trư : Chuột trong kho. Đoài Kim / Cấn Thổ. Nếu chỉ là những loại Hỏa bình thường như  Phúc Đăng Hỏa ( lửa trong đèn dầu ) , Lư Trung Hỏa ( lửa trong bếp lò ), hay Sơn Đầu Hỏa ( lửa ở trên núi ) thì gặp phải Thủy sẽ bị dập tắt ngay.

Cơ bản thì Thủy và Hỏa đã luôn là 2 trường phái đối lập theo cả thuyết Âm – Dương lẫn Phong Thủy, trong thực tế cũng đã chứng minh, Thủy và Hỏa không thể nào cũng tồn tại song song trong 1 bản thể, không thể cùng tồn tại khi dung hòa vào nhau, trừ những trường hợp đặc biệt.

Những trường hợp đặc biệt này, chính là hiện tượng Thủy và Hỏa có thể cùng tồn tại trong cùng 1 bản thể, cùng 1 khoảng không gian và thời gian, cùng tạo ra 1 hiện tượng siêu nhiên khi … Hỏa quá thịnh, Hỏa thịnh trội hơn cả Thủy. Vấn đề này, các bạn sẽ hiểu được rõ nhất ở hiện tượng Sấm Sét.

Như các bạn đã biết thì Sấm Sét được hình thành ở trên bầu trời, nó sẽ thiêu rụi bất kì thứ gì nó chạm vào hoặc đi ngang hay ở cuối điểm mà nó sẽ đến, đó chính là Hỏa với bản tính phá hủy, thiêu rụi, nhưng trên bầu trời luôn luôn là những đám mây, dù là mây đen hay mây trắng, nó được hình thành bởi những giọt nước, những hạt nước ngưng đọng từ dưới mặt hồ, mặt sông, mặt biển, bay lên trời cao và tích tụ tạo thành mây.

Vậy, tại sao Hỏa lại có thể tồn tại khi có sự hiện diện của Thủy trên trời và thậm chí còn có thể tạo ra Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), hay Thiên Thượng Hỏa ( lửa trên trời ), đó là vì Hỏa này là Hỏa thịnh, nó phát triển đến mức vượt qua cả quy luật. Khi gặp Thủy, 2 loại Hỏa này là Tích Lịch Hỏa và Thiên Thượng Hỏa sẽ càng phát huy tác dụng cao hơn, chính khí âm của Thủy và khí dương của Hỏa sẽ tạo ra sấm sét trên bầu trời.

 

 

1949 Tích Lịch Hỏa : Lửa sấm sét. Lâm Nội Chi Ngưu : Trâu trong chuồng. Càn Kim / Ly Hỏa. Tương tự như những người sinh năm 1948, những Tích Lịch Hỏa năm 1949 cũng sẽ là 1 trong 2 ngọn lửa mạnh mẽ nhất, không bị dập tắt bởi Thủy mà còn kết hợp với Thủy tạo ra 1 hiện tượng siêu nhiên mạnh mẽ.

Vì nếu chỉ là những loại Hỏa bình thường như  Phúc Đăng Hỏa ( lửa trong đèn dầu ) , Lư Trung Hỏa ( lửa trong bếp lò ), hay Sơn Đầu Hỏa ( lửa ở trên núi ) thì gặp phải Thủy sẽ bị dập tắt ngay.

Cơ bản thì Thủy và Hỏa đã luôn là 2 trường phái đối lập theo cả thuyết Âm – Dương lẫn Phong Thủy, trong thực tế cũng đã chứng minh, Thủy và Hỏa không thể nào cũng tồn tại song song trong 1 bản thể, không thể cùng tồn tại khi dung hòa vào nhau, trừ những trường hợp đặc biệt.

Những trường hợp đặc biệt này, chính là hiện tượng Thủy và Hỏa có thể cùng tồn tại trong cùng 1 bản thể, cùng 1 khoảng không gian và thời gian, cùng tạo ra 1 hiện tượng siêu nhiên khi … Hỏa quá thịnh, Hỏa thịnh trội hơn cả Thủy. Vấn đề này, các bạn sẽ hiểu được rõ nhất ở hiện tượng Sấm Sét.

Như các bạn đã biết thì Sấm Sét được hình thành ở trên bầu trời, nó sẽ thiêu rụi bất kì thứ gì nó chạm vào hoặc đi ngang hay ở cuối điểm mà nó sẽ đến, đó chính là Hỏa với bản tính phá hủy, thiêu rụi, nhưng trên bầu trời luôn luôn là những đám mây, dù là mây đen hay mây trắng, nó được hình thành bởi những giọt nước, những hạt nước ngưng đọng từ dưới mặt hồ, mặt sông, mặt biển, bay lên trời cao và tích tụ tạo thành mây.

Vậy, tại sao Hỏa lại có thể tồn tại khi có sự hiện diện của Thủy trên trời và thậm chí còn có thể tạo ra Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), hay Thiên Thượng Hỏa ( lửa trên trời ), đó là vì Hỏa này là Hỏa thịnh, nó phát triển đến mức vượt qua cả quy luật. Khi gặp Thủy, 2 loại Hỏa này là Tích Lịch Hỏa và Thiên Thượng Hỏa sẽ càng phát huy tác dụng cao hơn, chính khí âm của Thủy và khí dương của Hỏa sẽ tạo ra sấm sét trên bầu trời.

 

 

1950 Tùng Bách Mộc : Cây tùng bách. Xuất Sơn Chi Hổ : Hổ xuống núi. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Theo như thuyết ngũ hành phong thủy, Mộc sẽ là hệ được trưởng thành ở Dần, thịnh vượng và phát triển hơn ở Mão.

Bản chất cây tùng là 1 trong những loại cây có sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt cho nên các loại Hỏa hay Thủy bình thường sẽ khó mà có thể đốn hạ được nó, trong Hỏa thì chỉ có thể là Bính Dần, Đinh Mão là Lư Trung Hỏa ( lửa trong bếp lò ), còn Thủy thì chỉ có Nhâm Tuất, Quý Hợi là Đại Hải Thủy ( nước lớn ) mới có khả năng đốn hạ được nó, còn lại tất cả các loại Hỏa – Thủy kia đều là vô hại.

Tùng Bách Mộc vốn được sinh ra đã là thịnh vượng, không phải yếu đuối, tích tụ huyết sắc, hứng sương sớm ban mai, tiếp nhận ánh nắng mặt trời, chịu đựng những cơn gió thổi vi vu ngang qua từng đợt, tạo nên những tiếng kêu êm dịu, những tiếng kêu vi vu như tiếng đàn  du dương, hay là 1 dàn hợp xướng với tiếng kêu vi vu của lá và gió, còn cành kia là những khán giả với những lá cờ bay phất phới trên tay.

Tùng Bách Mộc sợ nhất là gặp Đại Lâm Mộc, Dương Liễu Mộc, tuy cùng là Mộc với nhau nhưng chúng không giống với nhau. Tùng Bách Mộc thích gặp Kim, nếu gặp được Kim thì đó là mệnh đại phú quý, trong khi Đại Lâm Mộc và Dương Liễu Mộc lại là những kẻ tham lam, hay đố kị.

Ngoài ra, với Tùng Bách Mộc còn có 1 mệnh đại phú quý gọi là “ Thượng Tùng Đông Tú “, tức là năm sinh có 3 trụ tháng – ngày – giờ thuộc vào hàng đông tức ( Nhâm Quý, Hợi Tý thuộc vào Đông tức ), mệnh này được truyền lại là mệnh đại phú quý theo như trong sách.

 

1951 Tùng Bách Mộc : Cây tùng bách. Ẩn Huyệt Chi Mão : Mèo trong hang. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Tương quan với cây Tùng Bách ở năm 1950, những người trong năm 1951 cũng sẽ thuộc mệnh Mộc nhưng mạnh mẽ, không yếu đuối và khó bị tiêu diệt.

Theo như thuyết ngũ hành phong thủy, Mộc sẽ là hệ được trưởng thành ở Dần, thịnh vượng và phát triển hơn ở Mão.

Bản chất cây tùng là 1 trong những loại cây có sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt cho nên các loại Hỏa hay Thủy bình thường sẽ khó mà có thể đốn hạ được nó, trong Hỏa thì chỉ có thể là Bính Dần, Đinh Mão là Lư Trung Hỏa ( lửa trong bếp lò ), còn Thủy thì chỉ có Nhâm Tuất, Quý Hợi là Đại Hải Thủy ( nước lớn ) mới có khả năng đốn hạ được nó, còn lại tất cả các loại Hỏa – Thủy kia đều là vô hại.

Tùng Bách Mộc vốn được sinh ra đã là thịnh vượng, không phải yếu đuối, tích tụ huyết sắc, hứng sương sớm ban mai, tiếp nhận ánh nắng mặt trời, chịu đựng những cơn gió thổi vi vu ngang qua từng đợt, tạo nên những tiếng kêu êm dịu, những tiếng kêu vi vu như tiếng đàn  du dương, hay là 1 dàn hợp xướng với tiếng kêu vi vu của lá và gió, còn cành kia là những khán giả với những lá cờ bay phất phới trên tay.

Tùng Bách Mộc sợ nhất là gặp Đại Lâm Mộc, Dương Liễu Mộc, tuy cùng là Mộc với nhau nhưng chúng không giống với nhau. Tùng Bách Mộc thích gặp Kim, nếu gặp được Kim thì đó là mệnh đại phú quý, trong khi Đại Lâm Mộc và Dương Liễu Mộc lại là những kẻ tham lam, hay đố kị.

Ngoài ra, với Tùng Bách Mộc còn có 1 mệnh đại phú quý gọi là “ Thượng Tùng Đông Tú “, tức là năm sinh có 3 trụ tháng – ngày – giờ thuộc vào hàng đông tức ( Nhâm Quý, Hợi Tý thuộc vào Đông tức ), mệnh này được truyền lại là mệnh đại phú quý theo như trong sách.

 

1952 Trường Lưu Thủy : Dòng nước lớn. Hành Vũ Chi Long : Rồng phun mưa. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Theo như sách ngũ hành ghi chú thì, mệnh Thìn được ví với nơi tích trữ nước, còn Tỵ trong ngũ hành được ví là nơi sinh ra Kim.

Xét theo phương diện ngũ hành thì Kim sợ Thủy, nhưng Kim của Tỵ không phải thuần túy hoàn toàn là Kim, mà Kim của Tỵ có chứa hàm chất của Thủy, bởi vì nơi tích trữ nước là mệnh Thìn gặp phải Kim sinh thủy là Tỵ cho nên nguồn nước sẽ cứ tiến lên, kéo dài liên tục không ngừng, không bị ngắt quãng, gọi là nước sông dài.

Nước sông dài lấy quý là ở Đông Nam vì ở đây yên tĩnh.

Nước sông dài có thế, cứ tuôn chảy và cuồn cuộn, kéo dài không ngừng, không bị ngắt quãng, nếu gặp phải Kim có thể sinh Thủy như Tỵ là tốt nhất.

Tuy nhiên, mệnh này lại sợ gặp phải Thủy dữ như Đại Hải Thủy, vì nước quá nhiều sẽ gây úng, gây ngập, mang điềm xấu, đồng thời Thổ và Thủy tương khắc với nhau, không thể dung hòa được, cho nên gặp phải Bính Tuất, Đinh Hợi, Canh Tý, Tân Sửu là mệnh Thổ thì tránh được tai họa, lúc  này thì cần phải có Kim sinh Thủy ở lại ứng cứu cho Hành Vũ Chi Long.

Ngoài ra, đi ngược với điều mà ai cũng nghĩ, đó là Thủy Hỏa là tương khắc tuyệt đối, cho nên sẽ không bao giờ có thể trung hòa 2 mệnh này lại với nhau, phải tuyệt đối nên tránh cho 2 mệnh này gần lại với nhau. Nhưng sự thật sẽ không hẳn là tuyệt đối như thế, Nước sông dài nếu gặp phải Giáp Thìn, Ất Hợi, tuy 2 mệnh này có xuất thân là mệnh Hỏa theo thứ tự lần lượt là Phúc Đăng Hỏa ( lửa trên ngọn đèn ) và Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên sườn núi ) lại là điềm lành.

Nhưng nhìn chung thì Thìn cũng chính là Rồng, mà Rồng thì khi về với nước hay vào với lửa thì cũng đều có thể sinh tồn được. Tuy nhiên, tốt hơn thì Rồng nên về với biển mệnh, cách ngược lại thì sẽ là cực tốt, có thể gọi là gần với mệnh đạt phú quý, sẽ giàu sang, hạnh phúc, may mắn dài lâu.

 

1953 Trường Lưu Thủy : Dòng nước lớn. Thảo Trung Chi Xà : Rắn trong cỏ. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Tương tự như Trường Lưu Thủy của năm 1952, những con Rắn trong 1953 cũng sẽ là mệnh có khả năng sinh tồn cao cả trong nước lẫn lửa.

Bởi theo như sách ngũ hành ghi chú thì, mệnh Thìn được ví với nơi tích trữ nước, còn Tỵ trong ngũ hành được ví là nơi sinh ra Kim.

Xét theo phương diện ngũ hành thì Kim sợ Thủy, nhưng Kim của Tỵ không phải thuần túy hoàn toàn là Kim, mà Kim của Tỵ có chứa hàm chất của Thủy, bởi vì nơi tích trữ nước là mệnh Thìn gặp phải Kim sinh thủy là Tỵ cho nên nguồn nước sẽ cứ tiến lên, kéo dài liên tục không ngừng, không bị ngắt quãng, gọi là nước sông dài.

Nước sông dài lấy quý là ở Đông Nam vì ở đây yên tĩnh.

Nước sông dài có thế, cứ tuôn chảy và cuồn cuộn, kéo dài không ngừng, không bị ngắt quãng, nếu gặp phải Kim có thể sinh Thủy như Tỵ là tốt nhất.

Tuy nhiên, mệnh này lại sợ gặp phải Thủy dữ như Đại Hải Thủy, vì nước quá nhiều sẽ gây úng, gây ngập, mang điềm xấu, đồng thời Thổ và Thủy tương khắc với nhau, không thể dung hòa được, cho nên gặp phải Bính Tuất, Đinh Hợi, Canh Tý, Tân Sửu là mệnh Thổ thì tránh được tai họa, lúc  này thì cần phải có Kim sinh Thủy ở lại ứng cứu cho Hành Vũ Chi Long.

Ngoài ra, đi ngược với điều mà ai cũng nghĩ, đó là Thủy Hỏa là tương khắc tuyệt đối, cho nên sẽ không bao giờ có thể trung hòa 2 mệnh này lại với nhau, phải tuyệt đối nên tránh cho 2 mệnh này gần lại với nhau. Nhưng sự thật sẽ không hẳn là tuyệt đối như thế, Nước sông dài nếu gặp phải Giáp Thìn, Ất Hợi, tuy 2 mệnh này có xuất thân là mệnh Hỏa theo thứ tự lần lượt là Phúc Đăng Hỏa ( lửa trên ngọn đèn ) và Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên sườn núi ) lại là điềm lành.

Nhưng nhìn chung thì Thìn cũng chính là Rồng, mà Rồng thì khi về với nước hay vào với lửa thì cũng đều có thể sinh tồn được. Tuy nhiên, tốt hơn thì Rồng nên về với biển mệnh, cách ngược lại thì sẽ là cực tốt, có thể gọi là gần với mệnh đạt phú quý, sẽ giàu sang, hạnh phúc, may mắn dài lâu.

 

1954 Sa Trung Kim : Vàng trong cát. Vân Trung Chi Mã : Ngựa trong mây. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Theo như thuyết ngũ hành trong phong thủy thì Ngọ là mệnh đế vượng của Hỏa, Mùi là nơi đế suy của Hỏa, mà Hỏa vượng thì Kim suy, chỉ khi nào Hỏa suy tàn thì Kim mới có thể phát triển vững mạnh, phát triển 1 cách bền bỉ được, còn nếu Hỏa cứ vượng thì Kim sẽ mãi mãi suy, không thể nào phát triển toàn diện, luôn luôn xuất hiện lỗi lầm và thậm chí có thể sẽ bị tiêu tan, hủy hoại bởi Hỏa.

Nếu Hỏa vừa mới bước vào giai đoạn suy yếu, thì song hành với đó là sự hình thành nền tảng phát triển của Kim, vì chỉ mới bước đầu hình thành nên còn yếu mềm và không vững vàng, không có lực để có thể lớn mạnh, cần có thời gian để phát triển hơn được gọi là Sa Trung Kim ( Vàng trong cát ).

Chính Sa Trung Kim vừa mới hình thành này mới cần đến sức mạnh của Hỏa vừa tàn để phát triển, dựa vào đó để mạnh mẽ hơn, cứng cáp hơn, dùng nó làm bàn đạp để phát triển, để tẩy luyện lên các cấp bậc cao hơn. Nhưng cũng hãy đề phòng, tránh để Hỏa vượng hơn nữa, nếu Hỏa tiếp tục lớn và mạnh hơn thì Sa Trung Kim này sẽ bị nung chảy, mất đi hình dạng và giảm sút sức mạnh.

Khi Hỏa quá vượng khiến cho Kim bại thì Mộc sẽ là tác nhân giúp điều chỉnh lại sự Thịnh – Suy của Kim. Đồng thời cũng nên lấy Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên núi ), Sơn Hạ Hỏa ( lửa dưới núi ), Phúc Đăng Hỏa ( lửa ngọn đèn ) tính chất ôn hòa mới có thể dể dàng tinh luyện Kim và điều hòa tính Thịnh – Suy của nó trước Hỏa.

Trong số mệnh cho rằng đây chính là số mệnh thường gặp của những thiếu gia nhà giàu, hưởng vinh hoa phú quý và luôn nhận được sự giúp đỡ, bao bọc của người thân, người quen, những người xung quanh. Sa Trung Kim sẽ cần đến Thủy tĩnh, sơ, vì nếu là Đại Hải Thủy hay nước lớn tiếp cận thì nó sẽ đè bẹp cát, phá hủy vị trí của cát, cuốn cát theo chiều của nó và chẳng nhận được lợi lộc gì. Cho nên đối với mệnh này cần phối hợp với Thiên Hà Thủy ( nước trên trời ), Đại Khuê Thủy ( nước trong suối ), Giãn Sơn Thủy ( nước khe núi ) mới gọi là tốt.

Sa Trung Kim cũng rất sợ Lộ Bàng Thổ ( đất giữa đường ), Sa Trung Thổ ( cát trong đất ), Mã Phi Thổ ( Đất vó ngựa ) vì sẽ bị những thứ đất này chôn vùi, ngày càng đi xuống và thậm chí là không thể phát triển được.

 

1955 Sa Trung Kim : Vàng trong đất. Kính Trọng Chi Dương : Dê được quý mến. Ly Hỏa / Càn Kim. Cũng có thể nhận định mệnh này cùng với Sa Trung Kim của năm 1954, sẽ có những mệnh để nó phát triển tốt hơn nhưng cũng sẽ có mệnh kìm nén sự phát triển và làm nó thụt lùi trong cuộc sống.

Theo như thuyết ngũ hành trong phong thủy thì Ngọ là mệnh đế vượng của Hỏa, Mùi là nơi đế suy của Hỏa, mà Hỏa vượng thì Kim suy, chỉ khi nào Hỏa suy tàn thì Kim mới có thể phát triển vững mạnh, phát triển 1 cách bền bỉ được, còn nếu Hỏa cứ vượng thì Kim sẽ mãi mãi suy, không thể nào phát triển toàn diện, luôn luôn xuất hiện lỗi lầm và thậm chí có thể sẽ bị tiêu tan, hủy hoại bởi Hỏa.

Nếu Hỏa vừa mới bước vào giai đoạn suy yếu, thì song hành với đó là sự hình thành nền tảng phát triển của Kim, vì chỉ mới bước đầu hình thành nên còn yếu mềm và không vững vàng, không có lực để có thể lớn mạnh, cần có thời gian để phát triển hơn được gọi là Sa Trung Kim ( Vàng trong cát ).

Chính Sa Trung Kim vừa mới hình thành này mới cần đến sức mạnh của Hỏa vừa tàn để phát triển, dựa vào đó để mạnh mẽ hơn, cứng cáp hơn, dùng nó làm bàn đạp để phát triển, để tẩy luyện lên các cấp bậc cao hơn. Nhưng cũng hãy đề phòng, tránh để Hỏa vượng hơn nữa, nếu Hỏa tiếp tục lớn và mạnh hơn thì Sa Trung Kim này sẽ bị nung chảy, mất đi hình dạng và giảm sút sức mạnh.

Khi Hỏa quá vượng khiến cho Kim bại thì Mộc sẽ là tác nhân giúp điều chỉnh lại sự Thịnh – Suy của Kim. Đồng thời cũng nên lấy Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên núi ), Sơn Hạ Hỏa ( lửa dưới núi ), Phúc Đăng Hỏa ( lửa ngọn đèn ) tính chất ôn hòa mới có thể dể dàng tinh luyện Kim và điều hòa tính Thịnh – Suy của nó trước Hỏa.

Trong số mệnh cho rằng đây chính là số mệnh thường gặp của những thiếu gia nhà giàu, hưởng vinh hoa phú quý và luôn nhận được sự giúp đỡ, bao bọc của người thân, người quen, những người xung quanh. Sa Trung Kim sẽ cần đến Thủy tĩnh, sơ, vì nếu là Đại Hải Thủy hay nước lớn tiếp cận thì nó sẽ đè bẹp cát, phá hủy vị trí của cát, cuốn cát theo chiều của nó và chẳng nhận được lợi lộc gì. Cho nên đối với mệnh này cần phối hợp với Thiên Hà Thủy ( nước trên trời ), Đại Khuê Thủy ( nước trong suối ), Giãn Sơn Thủy ( nước khe núi ) mới gọi là tốt.

Sa Trung Kim cũng rất sợ Lộ Bàng Thổ ( đất giữa đường ), Sa Trung Thổ ( cát trong đất ), Mã Phi Thổ ( Đất vó ngựa ) vì sẽ bị những thứ đất này chôn vùi, ngày càng đi xuống và thậm chí là không thể phát triển được.

 

1956  Sơn Hạ Hỏa : lửa dưới núi. Sơn Thượng Chi Hầu : Khỉ trên núi. Cấn Thổ / Đoài Kim. Theo như sách ngũ hành phong thủy để lại thì Thân được ví như là nơi mở cửa để xuống dưới đất, còn Dậu là trường phái ngược lại, được ví là nơi đến với trời cao.

Theo như quy luật tự nhiên, mặt trời sẽ từ sườn núi phía đông lên cao, dần dần tỏa sáng cả 1 vùng trời, bao trùm cả 1 vùng trời, đem lại ánh sáng cho muôn loài, và rồi càng ngày ánh nắng càng yếu dần và lặn dần xuống phía dưới sườn núi phía tây. Ánh nắng mặt trời ngay lúc này, lúc vừa lặn xuống phía sau sườn núi gọi là Sơn Hạ Hỏa ( lửa dưới núi ), nếu lửa đã hạ được xuống dưới núi mà gặp phải Mộc thì đó là tương sinh, tương trợ, giúp phát triển hơn, hoàn thiện hơn và mạnh mẽ hơn.

Đặc biệt loại Sơn Hạ Hỏa này không thích hợp với 1 số loại Hỏa  có tính chất mạnh như Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên trời ), Phúc Đăng Hỏa ( lửa đèn dầu ), nếu gặp phải những loại Hỏa này, Sơn Hạ Hỏa sẽ bị lu mờ đi, không còn giữ được sự sáng suốt, thậm chí còn làm mất đi sự tinh tú của bản thân trước sự xuất hiện của những loại Hỏa trên.

1957 Sơn Hạ Hỏa : Lửa dưới núi. Độc Lập Chi Kê : Gà độc thân. Đoài Kim / Cấn Thổ. Trùng hợp với năm trước đó, những năm 1956, những ngọn lửa của năm 1957 cũng tương tự như thế,  tuân theo quy luật và cũng dễ bị lu mờ bởi những loại lửa khác của thế gian.

Theo như sách ngũ hành phong thủy để lại thì Thân được ví như là nơi mở cửa để xuống dưới đất, còn Dậu là trường phái ngược lại, được ví là nơi đến với trời cao.

Theo như quy luật tự nhiên, mặt trời sẽ từ sườn núi phía đông lên cao, dần dần tỏa sáng cả 1 vùng trời, bao trùm cả 1 vùng trời, đem lại ánh sáng cho muôn loài, và rồi càng ngày ánh nắng càng yếu dần và lặn dần xuống phía dưới sườn núi phía tây. Ánh nắng mặt trời ngay lúc này, lúc vừa lặn xuống phía sau sườn núi gọi là Sơn Hạ Hỏa ( lửa dưới núi ), nếu lửa đã hạ được xuống dưới núi mà gặp phải Mộc thì đó là tương sinh, tương trợ, giúp phát triển hơn, hoàn thiện hơn và mạnh mẽ hơn.

Đặc biệt loại Sơn Hạ Hỏa này không thích hợp với 1 số loại Hỏa  có tính chất mạnh như Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên trời ), Phúc Đăng Hỏa ( lửa đèn dầu ), nếu gặp phải những loại Hỏa này, Sơn Hạ Hỏa sẽ bị lu mờ đi, không còn giữ được sự sáng suốt, thậm chí còn làm mất đi sự tinh tú của bản thân trước sự xuất hiện của những loại Hỏa trên.

 

1958 Bình Địa Mộc : Cây ở đồng bằng. Tiến Sơn Chi Cẩu : Chó vào núi. Càn Kim / Ly Hỏa. Thuyết ngũ hành phong thủy cũng đã ghi nhận trong sách qua các đời rằng, Mậu chính là đồng bằng, còn Hợi sẽ là nơi sinh ra cây cối.

Ở đồng bằng, diện tích đất tuy rộng nhưng ít chất dinh dưỡng, hiệu quả khi trồng cây sẽ không tốt, không nhiều. Không thể nào 1 quần thể cây rộng lớn tồn tại được ở đây, bởi chất dinh dưỡng mà nó cung cấp không đủ cho tất cả, cho nên tồn tại được trên đất ở đồng bằng chỉ có thể là 1 nhóm cây nhỏ, nhóm cây này có thể phát triển bình thường được trong không gian của đồng bằng nên gọi nó là Bình Định Mộc ( cây ở đồng bằng ).

Cây ở đồng bằng thường sẽ thích mưa, vì mưa giúp cho nó sinh sôi, phát triển tốt hơn, giúp cho đất có khả năng hấp thu dinh dưỡng tốt hơn để cung cấp cho cây nhiều hơn nữa. Nhưng cây ở đồng bằng sẽ không thích sương, bởi không sống chung với quần thể, nó sống thành từng nhóm, nên sương xuống sẽ gây giá buốt, lạnh lẽo cho cây, khiến cây giảm dần đi sự hấp thu của mình.

Cũng vì sống thành nhóm nên sẽ không thích có quá nhiều đất, diện tích đất quá rộng vì như thế cây ở đồng bằng dễ bị con người tàn phá, khai thác gỗ để làm vật gia dụng. Mà để khai thác được gỗ của cây, cần có Kim, dùng Kim để tạo thành những vật dụng chặt phá, khai thác, nên khi gặp Kim, Bình Địa Mộc sẽ gặp bất lợi.

Bình Địa Mộc sẽ rất thích khi được phối hợp với Thủy, Thổ và Mộc, đây là các mệnh tương hợp, tương sinh và tương trợ, giúp đỡ nhau phát triển tốt hơn.

Ngoài ra, Bình Định Mộc còn có mệnh gọi là đại phú quý với tên “ hàn cốc hồi xuân “, tức là người này sinh ở mùa đông, trong mệnh lại gặp phải dần mão, mệnh này chăc chắn giàu sang, phú quý, hạnh phúc và may mắn trong thời gian dài. Cả 2 chi này đều thuộc vào mệnh Mộc cho nên có thể nói, nếu cây sinh trưởng được vào mùa đông, phát triển mạnh mẽ dựa trên cái giá buốt lạnh của mùa đông thì đó là điều vô cùng tuyệt vời, hay còn có thể gọi là mệnh quý.

1959 Bình Địa Mộc : cây ở đồng bằng. Đạo Viện Chi Trư : Lợn trong tu viện. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Giống như những Bình Địa Mộc ở năm 1958, những Bình Địa Mộc ở năm 1959 cũng sẽ có số mệnh riêng của nó, cũng gặp mệnh để phát triển nhưng cũng gặp mệnh khiến nó phải thụt lùi.

Thuyết ngũ hành phong thủy cũng đã ghi nhận trong sách qua các đời rằng, Mậu chính là đồng bằng, còn Hợi sẽ là nơi sinh ra cây cối.

Ở đồng bằng, diện tích đất tuy rộng nhưng ít chất dinh dưỡng, hiệu quả khi trồng cây sẽ không tốt, không nhiều. Không thể nào 1 quần thể cây rộng lớn tồn tại được ở đây, bởi chất dinh dưỡng mà nó cung cấp không đủ cho tất cả, cho nên tồn tại được trên đất ở đồng bằng chỉ có thể là 1 nhóm cây nhỏ, nhóm cây này có thể phát triển bình thường được trong không gian của đồng bằng nên gọi nó là Bình Định Mộc ( cây ở đồng bằng ).

Cây ở đồng bằng thường sẽ thích mưa, vì mưa giúp cho nó sinh sôi, phát triển tốt hơn, giúp cho đất có khả năng hấp thu dinh dưỡng tốt hơn để cung cấp cho cây nhiều hơn nữa. Nhưng cây ở đồng bằng sẽ không thích sương, bởi không sống chung với quần thể, nó sống thành từng nhóm, nên sương xuống sẽ gây giá buốt, lạnh lẽo cho cây, khiến cây giảm dần đi sự hấp thu của mình.

Cũng vì sống thành nhóm nên sẽ không thích có quá nhiều đất, diện tích đất quá rộng vì như thế cây ở đồng bằng dễ bị con người tàn phá, khai thác gỗ để làm vật gia dụng. Mà để khai thác được gỗ của cây, cần có Kim, dùng Kim để tạo thành những vật dụng chặt phá, khai thác, nên khi gặp Kim, Bình Địa Mộc sẽ gặp bất lợi.

Bình Địa Mộc sẽ rất thích khi được phối hợp với Thủy, Thổ và Mộc, đây là các mệnh tương hợp, tương sinh và tương trợ, giúp đỡ nhau phát triển tốt hơn.

Ngoài ra, Bình Định Mộc còn có mệnh gọi là đại phú quý với tên “ hàn cốc hồi xuân “, tức là người này sinh ở mùa đông, trong mệnh lại gặp phải dần mão, mệnh này chăc chắn giàu sang, phú quý, hạnh phúc và may mắn trong thời gian dài. Cả 2 chi này đều thuộc vào mệnh Mộc cho nên có thể nói, nếu cây sinh trưởng được vào mùa đông, phát triển mạnh mẽ dựa trên cái giá buốt lạnh của mùa đông thì đó là điều vô cùng tuyệt vời, hay còn có thể gọi là mệnh quý.

 

1960 Bích Thượng Thổ : Đất trên vách. Lương Thượng Chi Thử : Chuột trên xà. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Xét theo vị thế trong sách ngũ hành phong thủy thì Sửu là chính vị của Thổ, còn Tý là nơi để Thủy thịnh.

Thổ vốn cứng rắng, bền bỉ, bao la, rộng lớn nhưng nếu gặp phải Thủy, mà phải là Thủy nhỏ thì sẽ giúp cho Thổ biến đổi thành bùn, và từ bùn này mới có thể tiến hành đắp đập, xây dựng thành tường, vì vậy cho nên mới gọi đây là Bích Thượng Thổ ( đất trên vách ).

Đất trên vách nếu muốn được chắc chắn hơn, bền bỉ hơn thì phải dựa vào Mộc, phải dựa vào Mộc, dựa vào cột, xà để vững vàng hơn, cho nên mệnh này gặp Mộc sẽ là điềm lành.

Nhưng mệnh này nếu gặp Hỏa, mà là Hỏa thịnh thì đó sẽ là điềm không tốt, sẽ bị cháy rụi, bị tàn phá, tiêu điều vì Hỏa thịnh. Còn nếu gặp Thủy cũng là 1 điềm tốt, nhưng trừ Đại Hải Thủy ( nước lớn ), nó sẽ làm ngập Bích Thượng Thổ, làm tiêu tan tất cả. xét đến mệnh Kim thì Bích Thượng Thổ chỉ thích hợp với các loại Kim bạc kim, vừa phải, phù hợp, không thái quá, tạo ra vẻ ngoài dễ chịu, dễ nhìn, nhưng ấn tượng mạnh.

 

1961 Bích Thượng Thổ : Đất trên vách. Lộ Đồ Chi Ngưu : Trâu trên đường. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Xét theo vị thế trong sách ngũ hành phong thủy thì Sửu là chính vị của Thổ, còn Tý là nơi để Thủy thịnh.

Thổ vốn cứng rắng, bền bỉ, bao la, rộng lớn nhưng nếu gặp phải Thủy, mà phải là Thủy nhỏ thì sẽ giúp cho Thổ biến đổi thành bùn, và từ bùn này mới có thể tiến hành đắp đập, xây dựng thành tường, vì vậy cho nên mới gọi đây là Bích Thượng Thổ ( đất trên vách ).

Đất trên vách nếu muốn được chắc chắn hơn, bền bỉ hơn thì phải dựa vào Mộc, phải dựa vào Mộc, dựa vào cột, xà để vững vàng hơn, cho nên mệnh này gặp Mộc sẽ là điềm lành.

Nhưng mệnh này nếu gặp Hỏa, mà là Hỏa thịnh thì đó sẽ là điềm không tốt, sẽ bị cháy rụi, bị tàn phá, tiêu điều vì Hỏa thịnh. Còn nếu gặp Thủy cũng là 1 điềm tốt, nhưng trừ Đại Hải Thủy ( nước lớn ), nó sẽ làm ngập Bích Thượng Thổ, làm tiêu tan tất cả. xét đến mệnh Kim thì Bích Thượng Thổ chỉ thích hợp với các loại Kim bạch kim, vừa phải, phù hợp, không thái quá, tạo ra vẻ ngoài dễ chịu, dễ nhìn, nhưng ấn tượng mạnh.

 

1962 Kim Bạch Kim : Vàng pha bạch kim. Quá Lâm Chi Hổ : Hổ qua đường. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Trong sách phong thủy ngũ hành có ghi, Mộc chính vị ở Dần Mão gọi là Mộc vượng, còn Kim thì sẽ tuyệt nhất ở Dần, thai hóa ở Mão. Quy luật ngũ hành, Mộc thịnh Kim suy, 1 khi Mộc đã phát triển mạnh mẽ thì Kim không thể nào phát triển theo được, cũng như khi Kim phát triển tốt thì Mộc cũng khó có thể tồn tại được lâu dài.

Mà trong mệnh này, Kim là mệnh yếu hơn, Kim ở đây mềm yếu, dễ suy tàn, không có thực lực nên gọi là Kim trong trang sức, Kim để trang trí, không có bất kì sự thương tổn nào đến các vật dụng khác.

Người xưa dùng Kim Bạch Kim để chèn lên các chữ cái, giúp cho các chữ cái sáng bóng hơn, giữ được chữ trên Mộc lâu hơn, bền hơn, rõ nét hơn và lộng lẫy hơn,… ngày nay,  ngoài việc chèn lên chữ ở Mộc, Kim Bạch Kim còn được dùng để làm trang sức, dùng để tạo thành những món đồ làm đẹp không gây hại cho mọi người, mọi vật. Ánh sáng của Kim Bạch Kim giúp tôn vinh thêm vẻ đẹp của những điều mà nó bao bọc lấy, nó không chỉ tồn tại vì riêng nó, nó còn tồn tại vì bản thể khác, bản thể mà nó chở che, bao trùm lấy.

Nếu Kim Bạch Kim này gặp được Đất trên thành, Đất trên tường mới là quý, nó phù hợp trong việc trang trí thêm cho vẻ đẹp căn nhà của bạn, không gây hại nhưng lại đem lại lợi ích lớn cho vẻ bề ngoài của căn nhà, đồng thời cũng là cơ hội để mọi người biết đến nó, cơ hội để nó phát triển cao hơn, phổ biến hơn trong trang trí nhà cửa.

Trong sách cũng có để lại những lưu ý rằng, mệnh Kim Bạch Kim này nếu gặp phải Mậu Dần, đất trên thành thì gọi là “ Viên Ngọc Núi Côn Sơn “, quý hiếm, tỏa sáng, sức mạnh to lớn, khả năng lan tỏa mạnh mẽ. Còn nếu là Quý Mão gặp phải Kĩ Mảo trong Kim Bạch Kim cũng có thể gọi là “ Thổ Ngọc Đông Đăng “ là đất quý, kim quý. Cả 2 mệnh này đầu là mệnh quý hiếm, nếu được sinh ra là 1 trong 2 mệnh này, kết hợp với 1 số yếu tố thuận lợi khác thì sẽ là mệnh phú quý, tài vận bay xa, danh hoa 1 kiếp, vô tư 1 đời, vinh hoa phú quý khó mà hưởng hết được.

 

1963 Kim Bạch Kim : Vàng pha bạch kim. Quá Lâm Chi Mão : Mèo qua rừng. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Cũng như những gì truyền lại trong sách ngũ hành, những năm 1963 cũng sẽ là Kim Bạch Kim giống với những năm 1962.

Trong sách phong thủy ngũ hành có ghi, Mộc chính vị ở Dần Mão gọi là Mộc vượng, còn Kim thì sẽ tuyệt nhất ở Dần, thai hóa ở Mão. Quy luật ngũ hành, Mộc thịnh Kim suy, 1 khi Mộc đã phát triển mạnh mẽ thì Kim không thể nào phát triển theo được, cũng như khi Kim phát triển tốt thì Mộc cũng khó có thể tồn tại được lâu dài.

Mà trong mệnh này, Kim là mệnh yếu hơn, Kim ở đây mềm yếu, dễ suy tàn, không có thực lực nên gọi là Kim trong trang sức, Kim để trang trí, không có bất kì sự thương tổn nào đến các vật dụng khác.

Người xưa dùng Kim Bạch Kim để chèn lên các chữ cái, giúp cho các chữ cái sáng bóng hơn, giữ được chữ trên Mộc lâu hơn, bền hơn, rõ nét hơn và lộng lẫy hơn,… ngày nay,  ngoài việc chèn lên chữ ở Mộc, Kim Bạch Kim còn được dùng để làm trang sức, dùng để tạo thành những món đồ làm đẹp không gây hại cho mọi người, mọi vật. Ánh sáng của Kim Bạch Kim giúp tôn vinh thêm vẻ đẹp của những điều mà nó bao bọc lấy, nó không chỉ tồn tại vì riêng nó, nó còn tồn tại vì bản thể khác, bản thể mà nó chở che, bao trùm lấy.

Nếu Kim Bạch Kim này gặp được Đất trên thành, Đất trên tường mới là quý, nó phù hợp trong việc trang trí thêm cho vẻ đẹp căn nhà của bạn, không gây hại nhưng lại đem lại lợi ích lớn cho vẻ bề ngoài của căn nhà, đồng thời cũng là cơ hội để mọi người biết đến nó, cơ hội để nó phát triển cao hơn, phổ biến hơn trong trang trí nhà cửa.

Trong sách cũng có để lại những lưu ý rằng, mệnh Kim Bạch Kim này nếu gặp phải Mậu Dần, đất trên thành thì gọi là “ Viên Ngọc Núi Côn Sơn “, quý hiếm, tỏa sáng, sức mạnh to lớn, khả năng lan tỏa mạnh mẽ. Còn nếu là Quý Mão gặp phải Kĩ Mảo trong Kim Bạch Kim cũng có thể gọi là “ Thổ Ngọc Đông Đăng “ là đất quý, kim quý. Cả 2 mệnh này đầu là mệnh quý hiếm, nếu được sinh ra là 1 trong 2 mệnh này, kết hợp với 1 số yếu tố thuận lợi khác thì sẽ là mệnh phú quý, tài vận bay xa, danh hoa 1 kiếp, vô tư 1 đời, vinh hoa phú quý khó mà hưởng hết được.

 

1964 Phúc Đăng Hỏa : Lửa ngọn đèn. Phục Đầm Chi Long : Rồng ẩn trong đầm lầy. Ly Hỏa / Càn Kim. Thìn tượng trưng cho ánh mặt trời lúc đã bắt đầu sáng, êm đềm, ấm áp. Còn Tỵ là hiện thân của nhưng ánh nắng chói chan, nắng nóng, mang lại sự khó chịu cho mọi người, đó là ánh nắng lúc giữa trưa, thời gian mà tia UV từ ánh nắng tác động mạnh nhất đến con người.

Một khi mặt trời đã chói sáng thì không cần phải đốt đèn, không cần bất kì thứ ánh sáng nào khác để vùng trời sáng thêm nữa, không gì có thể lấn áp được ánh sáng này của bầu trời. Mà khi ánh đèn này hiện lên trên bầu trời thì chỉ có thể gọi là Phúc Đăng Hỏa ( lửa trên ngọn đèn ), tuy yếu đuối, không thể lấn át được ánh sáng của mặt trời nhưng vẫn giữ được sự lung linh, vẫn tỏa sáng được những góc khuất của mặt đất, chính những Phúc Đăng Hỏa này sẽ giúp cho những nơi tăm tối của mặt đất, những nơi mà ánh sáng mặt trơi, mặt trăng không thể chạm đến có thể được phát quang, sáng hơn, thoát khỏi cuộc đời tăm tối mà hướng đến ánh sáng, dù là nhỏ nhất.

Ban đêm sẽ là khoảng thời gian mà Phúc Đăng Hỏa phát triển mạnh mẽ nhất, vì lúc này, ánh sáng của mặt trời đã dần suy yếu đi, mặt trăng cũng sẽ dần bị mây che phủ, duy chỉ còn Phúc Đăng Hỏa là tồn tại trên thế gian, tồn tại trên khắp bề mặt của Thổ.

Gỗ và Dầu sẽ là 2 thứ gắn liền với Phúc Đăng Hỏa và khó có thể tách ra được, Gỗ kích thích tạo lửa, dầu làm tăng sức mạnh của lửa, làm cho ngọn đèn sáng hơn, rõ hơn. Vì là chủ yếu phát sáng vào ban đêm, cho nên Phúc Đăng Hỏa sẽ kị ánh sáng mặt trời vào ban ngay, nó làm cho sự hiện diện của Phúc Đăng Hỏa không được mạnh mẽ, không đáng chú ý.

Dầu trong ngũ hành thuộc vào mệnh Thủy, cho nên xét theo mặt tự nhiên thì Phúc Đăng Hỏa nếu gặp được Mộc ( Gỗ ) và Thủy ( Dầu )  là điều tốt đẹp.

Phúc Đăng Hỏa có 2 mệnh được xem là mệnh quý theo như sách phong thủy :

+1 là “ che đèn thêm dầu “, điều này chỉ xảy ra khi Thủy mà Phúc Đăng Hỏa gặp được là nước dưới khe, nước dưới giếng, nước sông dài.

+2 là “ dưới đèn múa kím “, điều này thì sẽ xảy ra khi Phúc Đăng Hỏa gặp phải Kiếm Phùng Kim.

Cũng có 1 lưu ý khác dành cho Phúc Đăng Hỏa, đó là nên tránh xa Thổ trong ngũ hành, trừ Thổ của Bính Tuất, Đinh Hợi, hay Thổ trên mái nhà. Phúc Đăng Hỏa cũng thích Hỏa nhưng trừ Tích Lịch Hỏa và Hỏa Thần Rồng, vì tính năng của 2 loại Hỏa này quá mạnh cho nên sẽ dập tắt sự tỏa sáng của Phúc Đăng Hỏa.

 

1965 Phúc Đăng Hỏa : Lửa Ngọn đèn. Xuất Huyệt Chi Xà : Rắn rời hang. Cấn Thổ / Đoài Kim. Những ngọn lửa của năm 1965 cũng sẽ như những ngọn lửa của năm 1964, sẽ là ngọn lửa có khả năng chíu sáng nhưng cũng là ngọn lửa dễ bị lu mờ bởi sự xuất hiện của những yếu tố khác.

Trong sách ngũ hành thì Thìn tượng trưng cho ánh mặt trời lúc đã bắt đầu sáng, êm đềm, ấm áp. Còn Tỵ là hiện thân của nhưng ánh nắng chói chan, nắng nóng, mang lại sự khó chịu cho mọi người, đó là ánh nắng lúc giữa trưa, thời gian mà tia UV từ ánh nắng tác động mạnh nhất đến con người.

Một khi mặt trời đã chói sáng thì không cần phải đốt đèn, không cần bất kì thứ ánh sáng nào khác để vùng trời sáng thêm nữa, không gì có thể lấn áp được ánh sáng này của bầu trời. Mà khi ánh đèn này hiện lên trên bầu trời thì chỉ có thể gọi là Phúc Đăng Hỏa ( lửa trên ngọn đèn ), tuy yếu đuối, không thể lấn át được ánh sáng của mặt trời nhưng vẫn giữ được sự lung linh, vẫn tỏa sáng được những góc khuất của mặt đất, chính những Phúc Đăng Hỏa này sẽ giúp cho những nơi tăm tối của mặt đất, những nơi mà ánh sáng mặt trơi, mặt trăng không thể chạm đến có thể được phát quang, sáng hơn, thoát khỏi cuộc đời tăm tối mà hướng đến ánh sáng, dù là nhỏ nhất.

Ban đêm sẽ là khoảng thời gian mà Phúc Đăng Hỏa phát triển mạnh mẽ nhất, vì lúc này, ánh sáng của mặt trời đã dần suy yếu đi, mặt trăng cũng sẽ dần bị mây che phủ, duy chỉ còn Phúc Đăng Hỏa là tồn tại trên thế gian, tồn tại trên khắp bề mặt của Thổ.

Gỗ và Dầu sẽ là 2 thứ gắn liền với Phúc Đăng Hỏa và khó có thể tách ra được, Gỗ kích thích tạo lửa, dầu làm tăng sức mạnh của lửa, làm cho ngọn đèn sáng hơn, rõ hơn. Vì là chủ yếu phát sáng vào ban đêm, cho nên Phúc Đăng Hỏa sẽ kị ánh sáng mặt trời vào ban ngay, nó làm cho sự hiện diện của Phúc Đăng Hỏa không được mạnh mẽ, không đáng chú ý.

Dầu trong ngũ hành thuộc vào mệnh Thủy, cho nên xét theo mặt tự nhiên thì Phúc Đăng Hỏa nếu gặp được Mộc ( Gỗ ) và Thủy ( Dầu )  là điều tốt đẹp.

Phúc Đăng Hỏa có 2 mệnh được xem là mệnh quý theo như sách phong thủy :

+1 là “ che đèn thêm dầu “, điều này chỉ xảy ra khi Thủy mà Phúc Đăng Hỏa gặp được là nước dưới khe, nước dưới giếng, nước sông dài.

+2 là “ dưới đèn múa kím “, điều này thì sẽ xảy ra khi Phúc Đăng Hỏa gặp phải Kiếm Phùng Kim.

Cũng có 1 lưu ý khác dành cho Phúc Đăng Hỏa, đó là nên tránh xa Thổ trong ngũ hành, trừ Thổ của Bính Tuất, Đinh Hợi, hay Thổ trên mái nhà. Phúc Đăng Hỏa cũng thích Hỏa nhưng trừ Tích Lịch Hỏa và Hỏa Thần Rồng, vì tính năng của 2 loại Hỏa này quá mạnh cho nên sẽ dập tắt sự tỏa sáng của Phúc Đăng Hỏa.

 

 1966 Thiên Hà Thủy : Nước trên trời. Hành Lộ Chi Mã : Ngựa chạy trên đường. Đoài Kim / Cấn Thổ. Sách ngũ hành cho ghi rõ rằng, Ngọ là nơi chính vị của Hỏa, Ngọ sẽ làm cho Hỏa thành Hỏa vượng, nhưng Ngọ cũng chính là nơi nạp âm gọi thủy.

Có vẻ đối lập nhưng Thủy của Ngọ là Thủy từ trong Hỏa sinh ra, từ Hỏa mà thành, cho nên người ta gọi nó là Thiên Hà Thủy ( nước trên trời ), bởi nó thoát ra khỏi quy luật của tự nhiên, Thủy thậm chí không khắc Hỏa mà còn dung hòa với Hỏa tạo ra 1 loại Thủy mới. Nguyên khí của loại Thủy này khi lên cao là đạt cực đại, hóa thành những đám mây bao phủ và bay lượn khắp cả bầu trời trên cao, thống lĩnh gần như là cả bầu trời, đến mặt trời còn bị những đám mây này che lấp, làm ánh sáng của mặt trời yếu đi, và cũng chính những đám mây này, khi quá thịnh, thịnh vượng vượt quá mức sẽ tự động phân tách ra và tạo thành những cơn mưa rơi xuống trần gian. Việc này góp phần không hề nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển của vạn vật, chính những hạt mưa này đã giúp cho quá trình hình thánh và phát triển của vạn vật trở nên nhanh hơn, mạnh hơn.

Thiên Hà Thủy vốn là nước ở trên cao cho nên vạn vật thuộc ngũ hành dưới trần gian bao gồm cả Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ cũng không thể nào khắc chế được nó, thậm chí là cả Tích Lịch Hỏa, Thiên Long Hỏa cũng chỉ có thể dung hòa với Thiên Hà Thủy để tạo ra những hiện tượng thiên nhiên ở trần gian.

Duy nhất chỉ có 1 thứ xung khắc với nó, đó chính là Bích Thượng Thổ ( đất trên tường ), thuộc vào Canh Tý, Tân Mùi, vì khi nước trên trời rơi xuống, 2 loại Thổ này đã được bao bọc bởi Kim và mái cho nên không thể tiếp cận, và dù có bao nhiêu mưa rơi xuống thì cũng không thấm thía bao nhiu so với 2 loại Thổ trên.

 

1967 Thiên Hà Thủy : Nước trên trời. Thất Quần Chi Dương : Dê lạc đàn. Càn Kim / Ly Hỏa . Những hạt nước trên trời của người năm 1967 cũng sẽ là 1 hiện tượng tương trùng với những hạt nước trên trời của người năm 1966.

Sách ngũ hành cho ghi rõ rằng, Ngọ là nơi chính vị của Hỏa, Ngọ sẽ làm cho Hỏa thành Hỏa vượng, nhưng Ngọ cũng chính là nơi nạp âm gọi thủy.

Có vẻ đối lập nhưng Thủy của Ngọ là Thủy từ trong Hỏa sinh ra, từ Hỏa mà thành, cho nên người ta gọi nó là Thiên Hà Thủy ( nước trên trời ), bởi nó thoát ra khỏi quy luật của tự nhiên, Thủy thậm chí không khắc Hỏa mà còn dung hòa với Hỏa tạo ra 1 loại Thủy mới. Nguyên khí của loại Thủy này khi lên cao là đạt cực đại, hóa thành những đám mây bao phủ và bay lượn khắp cả bầu trời trên cao, thống lĩnh gần như là cả bầu trời, đến mặt trời còn bị những đám mây này che lấp, làm ánh sáng của mặt trời yếu đi, và cũng chính những đám mây này, khi quá thịnh, thịnh vượng vượt quá mức sẽ tự động phân tách ra và tạo thành những cơn mưa rơi xuống trần gian. Việc này góp phần không hề nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển của vạn vật, chính những hạt mưa này đã giúp cho quá trình hình thánh và phát triển của vạn vật trở nên nhanh hơn, mạnh hơn.

Thiên Hà Thủy vốn là nước ở trên cao cho nên vạn vật thuộc ngũ hành dưới trần gian bao gồm cả Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ cũng không thể nào khắc chế được nó, thậm chí là cả Tích Lịch Hỏa, Thiên Long Hỏa cũng chỉ có thể dung hòa với Thiên Hà Thủy để tạo ra những hiện tượng thiên nhiên ở trần gian.

Duy nhất chỉ có 1 thứ xung khắc với nó, đó chính là Bích Thượng Thổ ( đất trên tường ), thuộc vào Canh Tý, Tân Mùi, vì khi nước trên trời rơi xuống, 2 loại Thổ này đã được bao bọc bởi Kim và mái cho nên không thể tiếp cận, và dù có bao nhiêu mưa rơi xuống thì cũng không thấm thía bao nhiu so với 2 loại Thổ trên.

 

 

1968 Đại Dịch Thổ : Đất khu vực rộng lớn. Độc Lập Chi Hầu : Khỉ độc thân. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Quẻ Khôn trong ngũ hành phong thủy và trong bát quái mang ý nghĩa là Thổ ( đất ), cũng chính là Thân ( Hầu, Khỉ ), còn quẻ Đoài trong bát quái là ao, là đầm, cũng chính là Dậu ( Kê, Gà ). Mộc Kỉ là 1 trong những hành thuộc Thổ, nhưng nó không nằm sâu bên trong mặt đất, sâu bên trong những đầm lầy, ao hồ, mà nó nằm trên vùng ao hồ, nằm trên bề mặt như những hạt cát theo chân không khí mà bay quanh ao hồ cho nên gọi đây là Đất Dịch Chuyển.

Khi tất cả nguyên khí dần tụ hội và làm cho Đại Dịch Thổ lớn mạnh lên, nó sẽ tích cực tụ họp nguyên khí từ vạn vật, từ sự sinh trường và phát triển của vạn vật để về với đất, vê với nơi mà nó phải thuộc về.

Chính vì bản chất đó, Đại Dịch Thổ mang khuynh hướng cao của sự trở về, của sự trở về với bản tính của vạn vật.

Đại Dịch Thổ sẽ rất thích Thủy, đặc biệt là Thủy có tính chất êm dịu, ôn hòa, thanh mảnh, không mạnh bạo  và dồn dập như  Đại Hải Thủy, các loại Thủy phù hợp với Đaị Dịch Thổ là nước giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Đồng thời nó cũng thích các mệnh Kim thanh tú, Kim ôn hòa Kim trang sức, Kim Bạch Kim.

Cũng có 1 số can chi khí vượng làm cho nó không thể phát huy hết công lực, khiến nó nếu gặp phải sẽ bị vùi chôn, bị che lấp đi mãi mãi như nước biển lớn, nước trên núi, lửa dưới núi, lửa ngọn đèn…. hay khi vô tình gặp phải Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), ép buộc Đại Dịch Thổ phải dùng Thủy để hóa giải sự kìm hãm này. Nhưng dù sao thì vật cực tất phản mệnh, cách khắc này lại ngược lại với hành Quý, chỉ có thể là tai ương, khổ kiếp.

 

1969 Đại Dịch Thổ : Đất khu vực rộng lớn. Báo Hiệu Chi Kê : Gà gáy. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Theo như sách ngũ hành để lại thì Đại Dịch Thổ của những năm 1969 cũng không khác gì nhiều so với Đại Dịch Thổ năm 1968.

Quẻ Khôn trong ngũ hành phong thủy và trong bát quái mang ý nghĩa là Thổ ( đất ), cũng chính là Thân ( Hầu, Khỉ ), còn quẻ Đoài trong bát quái là ao, là đầm, cũng chính là Dậu ( Kê, Gà ). Mộc Kỉ là 1 trong những hành thuộc Thổ, nhưng nó không nằm sâu bên trong mặt đất, sâu bên trong những đầm lầy, ao hồ, mà nó nằm trên vùng ao hồ, nằm trên bề mặt như những hạt cát theo chân không khí mà bay quanh ao hồ cho nên gọi đây là Đất Dịch Chuyển.

Khi tất cả nguyên khí dần tụ hội và làm cho Đại Dịch Thổ lớn mạnh lên, nó sẽ tích cực tụ họp nguyên khí từ vạn vật, từ sự sinh trường và phát triển của vạn vật để về với đất, vê với nơi mà nó phải thuộc về.

Chính vì bản chất đó, Đại Dịch Thổ mang khuynh hướng cao của sự trở về, của sự trở về với bản tính của vạn vật.

Đại Dịch Thổ sẽ rất thích Thủy, đặc biệt là Thủy có tính chất êm dịu, ôn hòa, thanh mảnh, không mạnh bạo  và dồn dập như  Đại Hải Thủy, các loại Thủy phù hợp với Đaị Dịch Thổ là nước giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Đồng thời nó cũng thích các mệnh Kim thanh tú, Kim ôn hòa Kim trang sức, Kim Bạch Kim.

Cũng có 1 số can chi khí vượng làm cho nó không thể phát huy hết công lực, khiến nó nếu gặp phải sẽ bị vùi chôn, bị che lấp đi mãi mãi như nước biển lớn, nước trên núi, lửa dưới núi, lửa ngọn đèn…. hay khi vô tình gặp phải Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), ép buộc Đại Dịch Thổ phải dùng Thủy để hóa giải sự kìm hãm này. Nhưng dù sao thì vật cực tất phản mệnh, cách khắc này lại ngược lại với hành Quý, chỉ có thể là tai ương, khổ kiếp.

 

 

1970 Thoa Xuyến Kim : Vàng trang sức. Tự Quan Chi Cẩu : Chó nhà chùa. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Ngũ hành phong thủy có ghi lại rằng, theo ngũ hành, mệnh Kim sẽ suy yếu tại Tuất, bệnh tại Hợi. Kim này đã vừa bệnh lại còn vừa yếu, cho nên không thể làm bất cứ thứ gì, dễ đổ vỡ và khó có thể thành công, cho nên Kim này chỉ phù hợp cho công việc hỗ trợ.

Chính vì điều đó, Thoa Xuyến Kim chỉ đơn giản được dùng để làm những món đồ trang sức, hỗ trợ nâng cao vẻ đẹp của người sở hữu, nâng cao phẩm chất của thứ sẽ đồng hành cùng với nó.

Có nhiều người hỏi rằng, nếu suốt đời chỉ có thể làm công việc hỗ trợ, phụ tá như thế thì có thể đạt phú quý được không ? Liệu Thoa Xuyến Kim và vàng bạc có thể mang mệnh phú quý không ?

Câu trả lời là, có.

Không nhất định mệnh hỗ trợ mãi mãi sẽ vẫn là hỗ trợ, đến 1 lúc nào đó, khi mà năng lực hỗ trợ tích trữ của bạn đạt mức đủ cao, mệnh hỗ trợ của bạn dù vẫn là hỗ trợ nhưng… sự chú ý, thu hút của bạn được nhiều người quan tâm hơn, nhiều người sẽ trả giá cao để có thể có được bạn làm phụ tá, làm người giúp đỡ cho họ, đó cũng được coi là mệnh quý.

1 điều khác nữa là, cái quý nhất đối với vạn vật đó chính là bản tính tự nhiên của nó. Bạn không thể nào bắt 1 con cá leo cây và bắt 1 con khỉ phải bơi dưới nước hàng ngày cả, nó vẫn sẽ là nó, chủ yếu là đạo hạnh, công đức tích lũy của nó tới đâu mà thôi, hoặc bản tính nó thích điều gì hay thôi.

Thoa Xuyến Kim sợ nhất là gặp Hỏa và Đại Hải Thủy, thích nhất là được gặp nước giếng, nước khe núi, nước trong suối, nước sông dài, vì sự kết hợp này cực kì tốt, mang lại nhiều điều lành, nhiều điều may mắn, hạnh phúc, công danh sự nghiệp cũng vang dội.

Ngoài ra, Thoa Xuyến Kim còn thích mệnh Thổ, thích cát trong đất bởi quy luật ngũ hành tương sinh có chỉ ra rằng, Thổ là nguyên nhân sinh ra Kim. Cho nên khi Thoa Xuyến Kim gặp được Thổ thì cũng như là con gặp được mẹ vậy.

 

1971 Thoa Xuyến Kim : Vàng trang sức. Khuyên Dưỡng Chi Trư : Lợn nui nhốt. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Những chú lợn ở năm 1971 cũng giống như những chú chó ở năm 1970.

Ngũ hành phong thủy có ghi lại rằng, theo ngũ hành, mệnh Kim sẽ suy yếu tại Tuất, bệnh tại Hợi. Kim này đã vừa bệnh lại còn vừa yếu, cho nên không thể làm bất cứ thứ gì, dễ đổ vỡ và khó có thể thành công, cho nên Kim này chỉ phù hợp cho công việc hỗ trợ.

Chính vì điều đó, Thoa Xuyến Kim chỉ đơn giản được dùng để làm những món đồ trang sức, hỗ trợ nâng cao vẻ đẹp của người sở hữu, nâng cao phẩm chất của thứ sẽ đồng hành cùng với nó.

Có nhiều người hỏi rằng, nếu suốt đời chỉ có thể làm công việc hỗ trợ, phụ tá như thế thì có thể đạt phú quý được không ? Liệu Thoa Xuyến Kim và vàng bạc có thể mang mệnh phú quý không ?

Câu trả lời là, có.

Không nhất định mệnh hỗ trợ mãi mãi sẽ vẫn là hỗ trợ, đến 1 lúc nào đó, khi mà năng lực hỗ trợ tích trữ của bạn đạt mức đủ cao, mệnh hỗ trợ của bạn dù vẫn là hỗ trợ nhưng… sự chú ý, thu hút của bạn được nhiều người quan tâm hơn, nhiều người sẽ trả giá cao để có thể có được bạn làm phụ tá, làm người giúp đỡ cho họ, đó cũng được coi là mệnh quý.

1 điều khác nữa là, cái quý nhất đối với vạn vật đó chính là bản tính tự nhiên của nó. Bạn không thể nào bắt 1 con cá leo cây và bắt 1 con khỉ phải bơi dưới nước hàng ngày cả, nó vẫn sẽ là nó, chủ yếu là đạo hạnh, công đức tích lũy của nó tới đâu mà thôi, hoặc bản tính nó thích điều gì hay thôi.

Thoa Xuyến Kim sợ nhất là gặp Hỏa và Đại Hải Thủy, thích nhất là được gặp nước giếng, nước khe núi, nước trong suối, nước sông dài, vì sự kết hợp này cực kì tốt, mang lại nhiều điều lành, nhiều điều may mắn, hạnh phúc, công danh sự nghiệp cũng vang dội.

Ngoài ra, Thoa Xuyến Kim còn thích mệnh Thổ, thích cát trong đất bởi quy luật ngũ hành tương sinh có chỉ ra rằng, Thổ là nguyên nhân sinh ra Kim. Cho nên khi Thoa Xuyến Kim gặp được Thổ thì cũng như là con gặp được mẹ vậy.

 

1972 Tang Đố Mộc : gỗ cây dâu. Sơn Thượng Chi Thủ : Chuột trên  núi. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Theo đúng với ngũ hành thì Tý thuộc vào mệnh Thủy, còn Sửu thuộc vào mệnh Thổ, mà Thổ lại sinh Kim theo quy luật tương sinh.

Thủy sẽ làm cho Thổ phát triển tốt, phì nhiêu, màu mỡ, từ đó giúp cho Mộc được sinh sôi, nảy nở, được phát triển tốt hơn trong 1 môi trường giàu dinh dưỡng nhưng Kim thì ngược lại hoàn toàn, sau cả 1 quá trình hình thành và phát triển của Mộc, Kim vẫn có thể lập tức chặt gãy nó, phá hủy Mộc.

Mà đối với cây dâu ( Tang Đố Mộc ) thì người ta thường dùng nó khi nó còn non yếu, lúc mới sinh trưởng người ta đã chặt nó đi để làm dụng cụ phục vụ cho con người, cho nên những sản phẩm được làm từ cây dâu đó được gọi là Tang Đố Mộc ( gỗ cây dâu ).

Trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây dâu, nếu gặp được cát trong đất, đất ven đường, đất chuyển dịch thì là tốt nhất, nó sẽ phát triển với tốc độ cao hơn, phất lên như diều gặp gió. Gặp thêm nước sông dài, nước dưới khe, nước trong suối sẽ càng giúp nó phát triển nhanh thêm nữa.

Còn nếu gặp được mệnh cây Tùng Bách như Canh Dần , Tân Mão thì gọi là mạnh yếu giúp nhau,  còn 1 cảnh tượng tốt đẹp hơn, đó là khi gỗ cây dâu này gặp được gỗ cây liễu, người ta thường gọi là “ Dâu liễu thành rừng “, là hình ảnh tượng trưng cho sự an cư lạc nghiệp, cuộc sống no ấm, đầy đủ, yên bình.

Hay gặp được gỗ rừng lớn, nó giống như là 1 nhánh sông gặp được dòng sông, tuôn theo dòng sông mà chảy mãi chảy mãi, không lo lắng, không suy nghĩ nhìu rằng mình sẽ về đâu, đây cũng là 1 điều rất tốt.

Chỉ có khi nào Tang Đố Mộc gặp phải Gỗ Đồng Bằng, Gỗ Cây Lựu thì sẽ bị tàn phá, chèn ép đến mức héo úa, suy tàn, đây là điềm xấu, người mệnh này nên tránh.

 

1973 Tang Đố Mộc : Gỗ cây dâu. Lan Ngoại Chi Ngưu : Trâu ngoài chuồng. Ly Hỏa / Càn Kim. Những người sinh vào năm 1973 có số mệnh giống với những người năm 1972, cũng sẽ là Tang Đố Mộc, và cũng sẽ là những mệnh nên tránh hay nên hợp.

Theo đúng với ngũ hành thì Tý thuộc vào mệnh Thủy, còn Sửu thuộc vào mệnh Thổ, mà Thổ lại sinh Kim theo quy luật tương sinh.

Thủy sẽ làm cho Thổ phát triển tốt, phì nhiêu, màu mỡ, từ đó giúp cho Mộc được sinh sôi, nảy nở, được phát triển tốt hơn trong 1 môi trường giàu dinh dưỡng nhưng Kim thì ngược lại hoàn toàn, sau cả 1 quá trình hình thành và phát triển của Mộc, Kim vẫn có thể lập tức chặt gãy nó, phá hủy Mộc.

Mà đối với cây dâu ( Tang Đố Mộc ) thì người ta thường dùng nó khi nó còn non yếu, lúc mới sinh trưởng người ta đã chặt nó đi để làm dụng cụ phục vụ cho con người, cho nên những sản phẩm được làm từ cây dâu đó được gọi là Tang Đố Mộc ( gỗ cây dâu ).

Trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây dâu, nếu gặp được cát trong đất, đất ven đường, đất chuyển dịch thì là tốt nhất, nó sẽ phát triển với tốc độ cao hơn, phất lên như diều gặp gió. Gặp thêm nước sông dài, nước dưới khe, nước trong suối sẽ càng giúp nó phát triển nhanh thêm nữa.

Còn nếu gặp được mệnh cây Tùng Bách như Canh Dần , Tân Mão thì gọi là mạnh yếu giúp nhau,  còn 1 cảnh tượng tốt đẹp hơn, đó là khi gỗ cây dâu này gặp được gỗ cây liễu, người ta thường gọi là “ Dâu liễu thành rừng “, là hình ảnh tượng trưng cho sự an cư lạc nghiệp, cuộc sống no ấm, đầy đủ, yên bình.

Hay gặp được gỗ rừng lớn, nó giống như là 1 nhánh sông gặp được dòng sông, tuôn theo dòng sông mà chảy mãi chảy mãi, không lo lắng, không suy nghĩ nhìu rằng mình sẽ về đâu, đây cũng là 1 điều rất tốt.

Chỉ có khi nào Tang Đố Mộc gặp phải Gỗ Đồng Bằng, Gỗ Cây Lựu thì sẽ bị tàn phá, chèn ép đến mức héo úa, suy tàn, đây là điềm xấu, người mệnh này nên tránh.

 

1974 Đại Khê Thủy : nước dưới khe lớn. Lập Định Chi Hổ : Hổ tự lập. Cấn Thổ / Đoài Kim. Theo các ghi chú về phong thủy ngũ hành mà trong sách để lại, Dần Mão là mệnh thuộc về phương Đông, mà phương Đông lại là chính vị của Dần, cũng là nơi gió đông thịnh nhất trong 4 phương.

Nếu nước chảy theo hướng Đông, chảy ra sông, ra suối thì cứ tha hồ, vui vẻ, vô tư, tung tăn  mà di chuyển, những dòng chảy nhỏ tha hồ hội tụ với nhau tạo thành những dòng chảy lớn nên gọi nó là nưới dưới khe lớn, chưa kể rằng, Mão lại là chính hướng của gió đông.

Các dòng chảy lớn này quan trọng là phải luôn luôn hướng về biển, hướng về 1 mục tiêu lớn hơn, và nếu muốn thuận tiện hơn, trên đường đi của Đại Khê Thủy không nên có sự can thiệp, sự cản trở của bất kì sự vật nào khác, chảy liên tục, không ngớt, không đứt quãng.

Để có thể trôi chảy được như thế, Đại Khê Thủy nên gặp được Kim, mệnh sinh ra Thủy thì tốt nhất, chúng sẽ giúp đỡ nhau hoàn thiện chuyến đi của mình 1 cách hoàn mỹ nhất. còn nếu gặp phải các loại Thổ khác và sinh ra Mộc là điều không hay. Chỉ có Nhâm Tý, Quý Sửu là núi, mà nó lại gặp được thêm nước thì gọi nó là “ nước chảy quanh núi “, theo như trong sách ngũ hành đã ghi chép lại thì đây chính là mệnh đại quý, hiếm có trên đời.

 

1975 Đại Khê Thủy : Nước dưới khe lớn. Đắc Đạo Chi Mão : Mèo đắc đạo. Đoài Kim / Cấn Thổ. Nói đến Đại Khê Thủy của năm 1975, chúng ta nên xem xét lại Đại Khê Thủy của năm 1974 để biết rõ hơn.

Theo các ghi chú về phong thủy ngũ hành mà trong sách để lại, Dần Mão là mệnh thuộc về phương Đông, mà phương Đông lại là chính vị của Dần, cũng là nơi gió đông thịnh nhất trong 4 phương.

Nếu nước chảy theo hướng Đông, chảy ra sông, ra suối thì cứ tha hồ, vui vẻ, vô tư, tung tăn  mà di chuyển, những dòng chảy nhỏ tha hồ hội tụ với nhau tạo thành những dòng chảy lớn nên gọi nó là nưới dưới khe lớn, chưa kể rằng, Mão lại là chính hướng của gió đông.

Các dòng chảy lớn này quan trọng là phải luôn luôn hướng về biển, hướng về 1 mục tiêu lớn hơn, và nếu muốn thuận tiện hơn, trên đường đi của Đại Khê Thủy không nên có sự can thiệp, sự cản trở của bất kì sự vật nào khác, chảy liên tục, không ngớt, không đứt quãng.

Để có thể trôi chảy được như thế, Đại Khê Thủy nên gặp được Kim, mệnh sinh ra Thủy thì tốt nhất, chúng sẽ giúp đỡ nhau hoàn thiện chuyến đi của mình 1 cách hoàn mỹ nhất. còn nếu gặp phải các loại Thổ khác và sinh ra Mộc là điều không hay. Chỉ có Nhâm Tý, Quý Sửu là núi, mà nó lại gặp được thêm nước thì gọi nó là “ nước chảy quanh núi “, theo như trong sách ngũ hành đã ghi chép lại thì đây chính là mệnh đại quý, hiếm có trên đời.

 

1976 Sa Trung Thổ : Đất lẫn trong cát. Thiên Thượng Chi Long : rồng về trời. Càn Kim / Ly Hỏa. Sách phong thủy ngũ hành đã có truyền lại cho đời sau rằng, Thìn là chính vị của Thổ trong ngũ hành, Tỵ là nơi tuyệt thịnh của Thổ trong ngũ hành. Còn Hỏa của Bính Đinh trong ngũ hành cũng chính là mệnh cần Thìn để trưởng thành, còn Tỵ sẽ giúp được nó hiển linh.

Thổ này dù ở thế mộ tuyệt nhưng nếu gặp phải Hỏa vượng thì mọi thứ có thể sẽ đổ vỡ, sẽ phải làm lại tất cả từ đầu.

Điều này cũng dể hiểu thôi, hãy tưởng tượng rằng những đốm tro tàn sau khi bay lên trời thì sẽ đến lúc phải rơi xuống, và khi rơi xuống, nó hòa vào cát, hòa vào Thổ để trở thành 1 phần của Thổ, cho nên mới có tên gọi là Sa Trung Thổ ( đất lẫn trong cát ) của nó.

Sa Trung Thổ nếu gặp được Kim là quý, nó như là đất có vàng vậy, sẽ nhanh chóng được quan tâm và lên giá, nhưng cần có nước hỗ trợ để vàng trong đất được hiện ra rõ hơn, dùng nước để lọc phần cát bẩn, Kim hiện ra rõ rang hơn. Cho nên đối với mệnh này, gặp được Kim với Thủy là quý.

Loại đất này đặc biệt thích hợp với 2 loại Mộc, đó là Dương Liễu Mộc và Tang Đỗ Mộc, chỉ có 2 loại cây này mới có thể sinh sống  và phát triển tốt trong môi trường đất trong cát, còn lại , đối với các mệnh Mộc khác khi gặp phải Sa Trung Thổ đều không tốt.

Sa Trung Thổ cũng rất thích gặp lửa trên trời,  có ánh thái dương bãi cát chạy dài, khiến cho cảnh đẹp hơn, lung linh hơn, huyền diệu hơn, vì thế cho nên khi gặp được mệnh này cũng là quý.

 

1977 Sa Trung Thổ : Đất trong cát. Đầm Nội Chi Xà : Rắn trong đầm. Khôn Thổ / Khảm Thủy.  

Sách phong thủy ngũ hành đã có truyền lại cho đời sau rằng, Thìn là chính vị của Thổ trong ngũ hành, Tỵ là nơi tuyệt thịnh của Thổ trong ngũ hành. Còn Hỏa của Bính Đinh trong ngũ hành cũng chính là mệnh cần Thìn để trưởng thành, còn Tỵ sẽ giúp được nó hiển linh.

Thổ này dù ở thế mộ tuyệt nhưng nếu gặp phải Hỏa vượng thì mọi thứ có thể sẽ đổ vỡ, sẽ phải làm lại tất cả từ đầu.

Điều này cũng dể hiểu thôi, hãy tưởng tượng rằng những đốm tro tàn sau khi bay lên trời thì sẽ đến lúc phải rơi xuống, và khi rơi xuống, nó hòa vào cát, hòa vào Thổ để trở thành 1 phần của Thổ, cho nên mới có tên gọi là Sa Trung Thổ ( đất lẫn trong cát ) của nó.

Sa Trung Thổ nếu gặp được Kim là quý, nó như là đất có vàng vậy, sẽ nhanh chóng được quan tâm và lên giá, nhưng cần có nước hỗ trợ để vàng trong đất được hiện ra rõ hơn, dùng nước để lọc phần cát bẩn, Kim hiện ra rõ rang hơn. Cho nên đối với mệnh này, gặp được Kim với Thủy là quý.

Loại đất này đặc biệt thích hợp với 2 loại Mộc, đó là Dương Liễu Mộc và Tang Đỗ Mộc, chỉ có 2 loại cây này mới có thể sinh sống  và phát triển tốt trong môi trường đất trong cát, còn lại , đối với các mệnh Mộc khác khi gặp phải Sa Trung Thổ đều không tốt.

Sa Trung Thổ cũng rất thích gặp lửa trên trời,  có ánh thái dương bãi cát chạy dài, khiến cho cảnh đẹp hơn, lung linh hơn, huyền diệu hơn, vì thế cho nên khi gặp được mệnh này cũng là quý.

 

1978 Thiên Thượng Hỏa : Lửa trên trời. Cứu Nội Chi Mã : Ngựa trong chuồng. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Sách phong thũy ngũ hành đã truyền lại cho con cháu đời sau rằng, Mộc sẽ khiến cho Hỏa càng thêm thịnh vượng, càng thêm mạnh.

Mệnh Ngọ sẽ là giai đoạn cực thịnh của Hỏa trong ngũ hành,  còn Mùi, Kỷ là nơi Mộc được sinh ra.

Kết hợp 2 điều trên, ta có thể suy ra rằng, Mùi và Kỷ sẽ giúp cho Ngọ phát triển mạnh mẽ hơn.

Hỏa khi mạnh mẽ hơn, sẽ bốc lên cao hơn, hơi nóng của nó bay cao hơn, xa hơn trên bầu trời, mà khi lên đến bầu trời rồi thì không gọi nó là nhiệt của lửa nữa, mà gọi nó là ánh nắng của mặt trời, hay còn gọi là lửa mặt trời, vì là ánh nắng của mặt trời cho nên Thiên Thượng Hỏa sẽ thích gặp được Mộc, Thủy, Kim để biến hóa, điều hòa và hỗ trợ nhau cho sự phát triển của Mộc.

Ánh sáng từ Thiên Thượng Hỏa giúp cho quá trình quang hợp của cây tốt hơn, dòng nước từ Thủy sẽ giúp cây có nhiều dinh dưỡng hơn, phát triển mạnh mẽ hơn, cứng cáp hơn.

Đối với mệnh Hỏa thì Thiên Thượng Hỏa chỉ thích duy nhất Phúc Đăng Hỏa ( lửa ngọn đèn ) bởi vì nó dịu êm, hiền lành, còn các loại hỏa khác như Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ),… đều sẽ không hợp, tương khắc.

Nó cũng thích gặp được Thổ, nếu có sự kết hợp thêm của Kim, Mộc thì sẽ là mệnh cực quý, cực giàu sang, cuộc sống cực sung túc, may mắn, bình an.

Thiên Thượng Hỏa muốn hòa hoãn với Thủy, kết hợp với Thủy thì phải có nhiều mệnh, hệ khác kèm theo, còn nếu Thiên Thượng Hỏa chỉ kết hợp duy nhất với Thủy sẽ không thành bất cứ điều gì, vì Thủy – Hỏa tương khắc.

 

1979 Thiên Thượng Hỏa : lửa trên trời. Thảo Dã Chi Dương : Dê đồng cỏ. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Sách phong thũy ngũ hành đã truyền lại cho con cháu đời sau rằng, Mộc sẽ khiến cho Hỏa càng thêm thịnh vượng, càng thêm mạnh.

Mệnh Ngọ sẽ là giai đoạn cực thịnh của Hỏa trong ngũ hành,  còn Mùi, Kỷ là nơi Mộc được sinh ra.

Kết hợp 2 điều trên, ta có thể suy ra rằng, Mùi và Kỷ sẽ giúp cho Ngọ phát triển mạnh mẽ hơn.

Hỏa khi mạnh mẽ hơn, sẽ bốc lên cao hơn, hơi nóng của nó bay cao hơn, xa hơn trên bầu trời, mà khi lên đến bầu trời rồi thì không gọi nó là nhiệt của lửa nữa, mà gọi nó là ánh nắng của mặt trời, hay còn gọi là lửa mặt trời, vì là ánh nắng của mặt trời cho nên Thiên Thượng Hỏa sẽ thích gặp được Mộc, Thủy, Kim để biến hóa, điều hòa và hỗ trợ nhau cho sự phát triển của Mộc.

Ánh sáng từ Thiên Thượng Hỏa giúp cho quá trình quang hợp của cây tốt hơn, dòng nước từ Thủy sẽ giúp cây có nhiều dinh dưỡng hơn, phát triển mạnh mẽ hơn, cứng cáp hơn.

Đối với mệnh Hỏa thì Thiên Thượng Hỏa chỉ thích duy nhất Phúc Đăng Hỏa ( lửa ngọn đèn ) bởi vì nó dịu êm, hiền lành, còn các loại hỏa khác như Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ),… đều sẽ không hợp, tương khắc.

Nó cũng thích gặp được Thổ, nếu có sự kết hợp thêm của Kim, Mộc thì sẽ là mệnh cực quý, cực giàu sang, cuộc sống cực sung túc, may mắn, bình an.

Thiên Thượng Hỏa muốn hòa hoãn với Thủy, kết hợp với Thủy thì phải có nhiều mệnh, hệ khác kèm theo, còn nếu Thiên Thượng Hỏa chỉ kết hợp duy nhất với Thủy sẽ không thành bất cứ điều gì, vì Thủy – Hỏa tương khắc.

 

1980 Thạch Lựu Mộc : Cây thạch lưu. Thực Quả Chi Hầu : Khỉ ăn hoa quả. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Ngũ hành phong thủy cũng đã có những ghi nhận vào sách vở rằng, tháng 7 là đại biểu của Thân, tháng 8 là đại biểu của Dậu.

Trong 2 tháng này, cây thạch lựu ( Thạch Lựu Mộc ) phát triển mạnh, tươi tốt, đơm hoa kết trái,, và cũng chỉ duy nhất loại cây này có khả năng phát triển vào mùa này, còn lại, các loại Mộc khác chỉ có thể tàn lụi, héo úa và suy vong.

Canh Thân, Tân Dậu cũng có thể gọi là mệnh của Thạch Lựu Mộc.

Thứ cây này, nếu vào mùa thu thì đơm hoa kết trái, phát triển tốt, cho nên tính Mộc trong thời gian này là Mộc cứng rắn, phối hợp với Thủy Mộc Thổ Kim qua lại cũng đều được gọi là tốt, là điềm lành.

Duy chỉ có khi gặp phải nước biển lớn, thế Thủy của nó quá mạnh bạo, chảy ồ ạt, sức công phá lớn thì đường nào cũng bần cùng và sinh ra bệnh tật….

Lưu ý, mệnh này nếu gặp được lửa trên trời, lửa sấm sét, lửa trong lò cũng là điềm báo tốt, nhưng những ngọn lửa này cũng sẽ mang lại điềm xấu, nó có cả 2 mặt của nó.

Thạch Lựu Mộc cũng có bao hàm các mệnh phú quý như sinh vào ngày trụ, giờ trụ, là 1 trong những ngày của tháng 5, nếu còn kèm theo 1 mệnh Hỏa thì gọi chung mệnh này là “ thạch lựu phun hỏa “, còn khi Thạch Lựu Mộc gặp được cây dương liễu thì gọi là “ Hoa hồng liễu xanh “.

 

1981 Thạch Lựu Mộc : Cây thạch lựu. Long Tàng Chi Kê : Gà trong lồng. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Ngũ hành phong thủy cũng đã có những ghi nhận vào sách vở rằng, tháng 7 là đại biểu của Thân, tháng 8 là đại biểu của Dậu.

Trong 2 tháng này, cây thạch lựu ( Thạch Lựu Mộc ) phát triển mạnh, tươi tốt, đơm hoa kết trái,, và cũng chỉ duy nhất loại cây này có khả năng phát triển vào mùa này, còn lại, các loại Mộc khác chỉ có thể tàn lụi, héo úa và suy vong.

Canh Thân, Tân Dậu cũng có thể gọi là mệnh của Thạch Lựu Mộc.

Thứ cây này, nếu vào mùa thu thì đơm hoa kết trái, phát triển tốt, cho nên tính Mộc trong thời gian này là Mộc cứng rắn, phối hợp với Thủy Mộc Thổ Kim qua lại cũng đều được gọi là tốt, là điềm lành.

Duy chỉ có khi gặp phải nước biển lớn, thế Thủy của nó quá mạnh bạo, chảy ồ ạt, sức công phá lớn thì đường nào cũng bần cùng và sinh ra bệnh tật….

Lưu ý, mệnh này nếu gặp được lửa trên trời, lửa sấm sét, lửa trong lò cũng là điềm báo tốt, nhưng những ngọn lửa này cũng sẽ mang lại điềm xấu, nó có cả 2 mặt của nó.

Thạch Lựu Mộc cũng có bao hàm các mệnh phú quý như sinh vào ngày trụ, giờ trụ, là 1 trong những ngày của tháng 5, nếu còn kèm theo 1 mệnh Hỏa thì gọi chung mệnh này là “ thạch lựu phun hỏa “, còn khi Thạch Lựu Mộc gặp được cây dương liễu thì gọi là “ Hoa hồng liễu xanh “.

 

1982 Đại Hải Thủy : Nước đại dương. Cố Gia Chi Khuyển : Chó về nhà. Ly Hỏa / Càn Kim. Trong ngũ hành có ghi chép, Thủy sẽ đạt được giai đoạn thành thục tại Tuất và Hợi. Do đó, Thủy trong mệnh này có thực lực vô cùng hùng hậu.

Đồng thời, mệnh Thủy trong ngũ hành cũng thuộc vào mệnh Hợi, là biểu tượng cho sông đổ ra biển, cho nên mới gọi nó là nước biển lớn ( Đại Hải Thủy ).

Biển cả vốn mênh mộc, thế lực vô cùng vô tận, khó có thể có bất cứ thứ gì sánh bằng.

Biển còn là nơi tụ họp của nhiều nguồn nước khác nhau, nhiều nhánh sông, nhiều con sông nhỏ đổ vào biển cả để cùng chung 1 dòng chảy, cùng chung 1 mái nhà, kể cả là nước trên trời, nước sông dài, nước suối lớn, … đều sẽ đổ về nước biển lớn và gặp được Đại Hải Thủy là điều tốt.

Trong mệnh này có 1 mệnh phú quý 1 đời, khó mệnh nào có thể sánh lại được chính là Nhâm Thìn trong nước sông dài, mệnh này phối hợp với nước biển lớn gọi “ Long Phi Cố Hải “ ( rồng quay về biển ). Còn với Hỏa thì mệnh này thích Hỏa trên trơi vì mặt trời mọc ở hướng Đông, mà hướng Đông là hướng của biển, cho nên Hỏa trên trời sẽ giúp cho mặt biển thêm lung linh. Trong Kim thì nó thích Kim đáy biển, Mộc thì nó thích Mộc cây dâu, Mộc cây dương liễu, đối với Thổ thì nó thích Thổ dịch chuyển và Thổ bên đường.

Ngoài ra, tất cả đều khó mà có thể dung hòa được với Đại Hải Thủy, nếu nước biển lớn gặp nước biển lớn sẽ tạo nên trận đại hồng thủy nhấn chìm và phá hủy tất cả, còn nếu Đại Hải Thủy gặp phải Tích Lịch Hỏa sẽ tạo ra giông tố hủy diệt tất cả, tạo thế hung hãn, sức mạnh khủng khiếp, phong ba bão táp  ập đến phá tan, làm vạn vật tiêu điều. mệnh này sẽ không thể nào phát triển được, không thể nào giàu sang mà bần tiện muôn đời, lao động khổ sa, khó khăn nhưng vẫn không có thu hoạch nhiều.

Cho nên người mệnh này cần tìm cho mình đó là  mệnh có thế núi hùng hậu để che chắn biển lớn, giúp tránh các tai kiếp về sau.

 

1983 Đại Hải Thủy : Nước đại dương. Lâm Hạ Chi Trư : Lợn trong rừng. Cấn Thổ / Đoài Kim Những mệnh Đại Hải Thủy của người năm 1983 nên sánh cùng với các Đại Hải Thủy ở năm 1982.

Trong ngũ hành có ghi chép, Thủy sẽ đạt được giai đoạn thành thục tại Tuất và Hợi. Do đó, Thủy trong mệnh này có thực lực vô cùng hùng hậu.

Đồng thời, mệnh Thủy trong ngũ hành cũng thuộc vào mệnh Hợi, là biểu tượng cho sông đổ ra biển, cho nên mới gọi nó là nước biển lớn ( Đại Hải Thủy ).

Biển cả vốn mênh mộc, thế lực vô cùng vô tận, khó có thể có bất cứ thứ gì sánh bằng.

Biển còn là nơi tụ họp của nhiều nguồn nước khác nhau, nhiều nhánh sông, nhiều con sông nhỏ đổ vào biển cả để cùng chung 1 dòng chảy, cùng chung 1 mái nhà, kể cả là nước trên trời, nước sông dài, nước suối lớn, … đều sẽ đổ về nước biển lớn và gặp được Đại Hải Thủy là điều tốt.

Trong mệnh này có 1 mệnh phú quý 1 đời, khó mệnh nào có thể sánh lại được chính là Nhâm Thìn trong nước sông dài, mệnh này phối hợp với nước biển lớn gọi “ Long Phi Cố Hải “ ( rồng quay về biển ). Còn với Hỏa thì mệnh này thích Hỏa trên trơi vì mặt trời mọc ở hướng Đông, mà hướng Đông là hướng của biển, cho nên Hỏa trên trời sẽ giúp cho mặt biển thêm lung linh. Trong Kim thì nó thích Kim đáy biển, Mộc thì nó thích Mộc cây dâu, Mộc cây dương liễu, đối với Thổ thì nó thích Thổ dịch chuyển và Thổ bên đường.

Ngoài ra, tất cả đều khó mà có thể dung hòa được với Đại Hải Thủy, nếu nước biển lớn gặp nước biển lớn sẽ tạo nên trận đại hồng thủy nhấn chìm và phá hủy tất cả, còn nếu Đại Hải Thủy gặp phải Tích Lịch Hỏa sẽ tạo ra giông tố hủy diệt tất cả, tạo thế hung hãn, sức mạnh khủng khiếp, phong ba bão táp  ập đến phá tan, làm vạn vật tiêu điều. mệnh này sẽ không thể nào phát triển được, không thể nào giàu sang mà bần tiện muôn đời, lao động khổ sa, khó khăn nhưng vẫn không có thu hoạch nhiều.

Cho nên người mệnh này cần tìm cho mình đó là  mệnh có thế núi hùng hậu để che chắn biển lớn, giúp tránh các tai kiếp về sau.

 

1984 Hải Trung Kim : Vàng dưới đáy biển. Ốc Thượng Chi Thử : chuột ở nóc nhà. Đoài Kim / Cấn Thổ. Trong “ Bác Vật Vựng Biên “ có ghi chép lại rằng,  đối với Giáp Tí Ất Sửu thì Tý thuộc hành Thủy, là nơi mà các hồ ao thủy thịnh vượng, phát triển.

Ngược lại với Tý chính là Kim, Kim không những không thịnh ở Tý mà còn là nơi Kim suy yếu đi và cũng là nơi Kim tử, mộ ở Sửu chỗ Thủy thịnh vượng, từ đó Kim đã bị cho vào thế “ tử mộ “ đằng nào cũng khó thoát khỏi tai kiếp cho nên gọi nó bằng cái tên Hải Trung Kim, được ví như là vàng trong lòng biển cả.

Biển cả rộng lớn mênh mông, muốn tìm được vàng trong lòng biển khó như đi lên trời vậy, Hải Trung Kim khí thế bị bao tang, che lấp, có danh nhưng vô nghĩa, không thể làm được bất cứ điều gì, có thực nhưng như vô hình, không thể nào tìm thấy một cách dễ dàng được, cứ lặng yên trong lòng biển như thai nhi khi còn đang ở trong bụng mẹ, dựa vào mẹ để sinh tồn và phát triển.

 

1985 Hải Trung Kim : Vàng dưới biển. Hải Nội Chi Ngưu : Trâu trong biển. Càn Kim / Ly Hỏa. Trong “ Bác Vật Vựng Biên “ có ghi chép lại rằng,  đối với Giáp Tí Ất Sửu thì Tý thuộc hành Thủy, là nơi mà các hồ ao thủy thịnh vượng, phát triển.

Ngược lại với Tý chính là Kim, Kim không những không thịnh ở Tý mà còn là nơi Kim suy yếu đi và cũng là nơi Kim tử, mộ ở Sửu chỗ Thủy thịnh vượng, từ đó Kim đã bị cho vào thế “ tử mộ “ đằng nào cũng khó thoát khỏi tai kiếp cho nên gọi nó bằng cái tên Hải Trung Kim, được ví như là vàng trong lòng biển cả.

Biển cả rộng lớn mênh mông, muốn tìm được vàng trong lòng biển khó như đi lên trời vậy, Hải Trung Kim khí thế bị bao tang, che lấp, có danh nhưng vô nghĩa, không thể làm được bất cứ điều gì, có thực nhưng như vô hình, không thể nào tìm thấy một cách dễ dàng được, cứ lặng yên trong lòng biển như thai nhi khi còn đang ở trong bụng mẹ, dựa vào mẹ để sinh tồn và phát triển.

 

1986 Lư Trung Hỏa : Lửa trong lò. Sơn Lâm Chi Hổ : Hổ trong rừng. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Trong sách ngũ hành phong thủy có ghi chép lại, Dần ở địa chi là ngôi thứ 3, Mão ở địa chi là ngôi thứ 4, còn Bính, Đinh trong ngũ hành là chính vị của mệnh Hỏa.

Tại đây, Hỏa đã đạt được vị thế cao ngất, khí thế ngùn ngùn, cảnh giới cũng thuộc hàng bậc cao, mà lại còn có thêm sự trợ giúp đến từ hành Mộc, tức Dần Mão thì như  “ hổ thêm cánh “, càng thêm khí thế và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. điều này được hiểu theo quy luật tương sinh, tương trợ trong ngũ hành.

Khi này, trời đất vừa mới được hình thành, như bầu trời lúc sáng, ánh sáng của mặt trời như là tro trong lò lửa vừa mới được sinh ra, dần dần về sau đó, có sự can thiệp nhiều hơn đến từ Mộc mà lửa dần dần lớn mạnh thêm, khí thế cao hơn, khủng khiếp hơn. Đây được gọi là Lư Trung Hỏa ( lửa trong lò ), với đất được ví như lò lửa, còn âm dương thì cũng như than củi.

 

1987 Lư Trung Hỏa : Lửa trong lò. Vọng Nguyệt Chi Mão : Mèo ngắm trăng. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Trong sách ngũ hành phong thủy có ghi chép lại, Dần ở địa chi là ngôi thứ 3, Mão ở địa chi là ngôi thứ 4, còn Bính, Đinh trong ngũ hành là chính vị của mệnh Hỏa.

Tại đây, Hỏa đã đạt được vị thế cao ngất, khí thế ngùn ngùn, cảnh giới cũng thuộc hàng bậc cao, mà lại còn có thêm sự trợ giúp đến từ hành Mộc, tức Dần Mão thì như  “ hổ thêm cánh “, càng thêm khí thế và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. điều này được hiểu theo quy luật tương sinh, tương trợ trong ngũ hành.

Khi này, trời đất vừa mới được hình thành, như bầu trời lúc sáng, ánh sáng của mặt trời như là tro trong lò lửa vừa mới được sinh ra, dần dần về sau đó, có sự can thiệp nhiều hơn đến từ Mộc mà lửa dần dần lớn mạnh thêm, khí thế cao hơn, khủng khiếp hơn. Đây được gọi là Lư Trung Hỏa ( lửa trong lò ), với đất được ví như lò lửa, còn âm dương thì cũng như than củi.

 

1988 Đại Lâm Mộc : Cây trong rừng lớn. Thanh Ôn Chi Long : Rồng Ôn Hòa. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Trong địa chi của ngũ hành phong thủy, Tỵ đứng ngôi thứ 6, còn Thìn thì là đại biểu cho đất đai hoang dã.

Mộc cũng chính vị ở ngôi thứ 6, có lợi, dể sinh cành lá xum xuê.

Chính những cây to xum xêu này được sinh ra ở đất đai hoang dã, rộng lớn, cho nên gọi nó là Đại Lâm Mộc.

Nếu mệnh này gặp được người mệnh Thổ, như  các thổ rộng, thổ xum xuê thì sẽ phát triển cao hơn, phát triển nhanh hơn, dinh dưỡng dồi dào, chắc chắn, mạnh mẽ, chịu đựng được các tai kiếp của nhân gian.

 

1989 Đại Lâm Mộc : Cây trong rừng. Phúc Khí Chi Xà : Rắn có phúc. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Trong địa chi của ngũ hành phong thủy, Tỵ đứng ngôi thứ 6, còn Thìn thì là đại biểu cho đất đai hoang dã.

Mộc cũng chính vị ở ngôi thứ 6, có lợi, dể sinh cành lá xum xuê.

Chính những cây to xum xêu này được sinh ra ở đất đai hoang dã, rộng lớn, cho nên gọi nó là Đại Lâm Mộc.

Nếu mệnh này gặp được người mệnh Thổ, như  các thổ rộng, thổ xum xuê thì sẽ phát triển cao hơn, phát triển nhanh hơn, dinh dưỡng dồi dào, chắc chắn, mạnh mẽ, chịu đựng được các tai kiếp của nhân gian.

 

1990 Lộ Bàng Thổ : đất giữa đường. Thất Lý Chi Mã : ngựa trong nhà Khảm Thủy / Cấn Thổ Trong năm này, mệnh Hỏa sẻ trở nên Hỏa vượng bởi Mùi ngũ hành của năm là Thổ Sinh Mộc, khiến cho Ngọ thành Hỏa vượng.

Nhưng điều này lại ngược lại với Thổ, không những không thể vượng mà còn bị tàn, bị trở ngại.

Một cách dễ hiểu là Thổ là cung mệnh sinh Mộc ( đất giúp cây cỏ phát triển tươi tốt, xanh mờn ), nhưng Mộc lại là nguyên nhân tạo ra Hỏa ( cây cháy sẽ tạo ra lửa ), mà lửa lại sẽ là nguyên nhân gây cho đất đai kém màu mỡ, kém phì nhiêu, hay Hỏa làm cho Thổ bị suy tàn.

Chính Thổ sẽ là nguyên nhân tự hại lấy bản thân mình, vì đã tạo ra sự phát triển của cây cối nhưng lại để cây cối phát triển và cháy tạo lửa làm cho đất bị khô cằn, đó cũng là số phận của những mảnh đất ven đường hay còn gọi là “ Lộ Bàng Thổ “.

Nếu  “ Lộ Bàng Thổ “ có thể may mắn gặp được Thủy sẽ thoát được sự khô cằn mà Hỏa mang lại, thậm chí còn có thể phát triển tốt hơn về với đất, về với vạn vật, là nơi sinh trường và phát triển lí tưởng của vạn vật. Hơn thế nữa, nếu được kết hợp với mệnh Kim, sẽ là nơi lí tưởng để tạo nên những cung điện, những khi nghĩ dưỡng sang trọng, những căn nhà ấm áp, giàu tình thương, hạnh phúc, hòa thuận, tạo nên 1 nơi tá túc phồn vinh.

 

1991 Lộ Bàng Thổ : đất giữa đường. Đắc Lộc Chi Dương : dê có lộc. Ly Hỏa / Càn Kim. Cũng tương tự như những nhân thân sinh vào năm 1990, những người sinh trùng 1991 cũng sẽ gặp phải sự tàn phá của Hỏa vì sinh ra Mộc, nhưng được phù trợ bởi Thủy và vinh quang nhờ Kim.

Trong năm này, mệnh Hỏa sẻ trở nên Hỏa vượng bởi Mùi ngũ hành của năm là Thổ Sinh Mộc, khiến cho Ngọ thành Hỏa vượng.

Nhưng điều này lại ngược lại với Thổ, không những không thể vượng mà còn bị tàn, bị trở ngại.

Một cách dễ hiểu là Thổ là cung mệnh sinh Mộc ( đất giúp cây cỏ phát triển tươi tốt, xanh mờn ), nhưng Mộc lại là nguyên nhân tạo ra Hỏa ( cây cháy sẽ tạo ra lửa ), mà lửa lại sẽ là nguyên nhân gây cho đất đai kém màu mỡ, kém phì nhiêu, hay Hỏa làm cho Thổ bị suy tàn.

Chính Thổ sẽ là nguyên nhân tự hại lấy bản thân mình, vì đã tạo ra sự phát triển của cây cối nhưng lại để cây cối phát triển và cháy tạo lửa làm cho đất bị khô cằn, đó cũng là số phận của những mảnh đất ven đường hay còn gọi là “ Lộ Bàng Thổ “.

Nếu  “ Lộ Bàng Thổ “ có thể may mắn gặp được Thủy sẽ thoát được sự khô cằn mà Hỏa mang lại, thậm chí còn có thể phát triển tốt hơn về với đất, về với vạn vật, là nơi sinh trường và phát triển lí tưởng của vạn vật. Hơn thế nữa, nếu được kết hợp với mệnh Kim, sẽ là nơi lí tưởng để tạo nên những cung điện, những khi nghĩ dưỡng sang trọng, những căn nhà ấm áp, giàu tình thương, hạnh phúc, hòa thuận, tạo nên 1 nơi tá túc phồn vinh.

 

1992 Kiếm Phong Kim : Vàng đầu mũi Kiếm. Thanh Tú Chi Hầu : Khỉ thanh tú. Cấn Thổ / Đoài Kim Trùng hợp và có mối tương quan với mệnh Kim, Thân Dậu được xếp và hạng 1 trong những hiện thân của ngũ hành.

Trong quá trình sinh trưởng, vị trí lâm quan của Thân Dậu cũng như của mệnh Kim là Thân, còn vị trí đế vượng là ở Dậu.

Cũng như mọi người đã biết, nếu được sinh ra 1 cách hoàn hảo, sinh ra đúng bài bản và đúng quy trình, không dư cũng không thiếu thì chắc chắn sẽ phát triển bình thường, sẽ vững chãi và bền bỉ với thời gian.

Hãy tưởng tượng điều tương tự với mệnh Kim.

Nếu được tạo ra 1 cách bài bản, nguyên chất, được tôi luyện qua môi trường khắc nghiệt thì chắc chắn sẽ bền vững, siêu bền, siêu cứng, siêu dai với ngoại lực,với thời gian, với mọi tác động từ phía bên ngoài, đây cũng có thể gọi là sự phù trợ, sự trợ giúp to lớn của Hỏa, Hỏa là nguồn động lực to lớn tôi luyện nên sự bền bỉ của Kim.

Tuy nhiên, núi cao còn có núi cao hơn, đó là quy luật, dù có hoàn hảo tới mức nào thì mọi thứ đều có khắc tinh của nó, chính vật đó có thể khắc chế chủ thể Kim, hay thậm chí còn có thể phá hoại cả Kim, đó chính là “ Kiếm Phong Kim “ – “ Đầu Kiếm Vàng “, dù vật có cững, bền bỉ, được tôi luyện gian khổ tới mức nào cũng không thể vượt qua được đầu kiếm vàng.

 

1993 Kiếm Phong Kim : Vàng đầu mũi kiếm. Lâu Túc Kê : Gà nhà gác. Đoài Kim / Cấn Thổ. Cũng tương tự như những thân nhân sinh trùng năm 1992, những người sinh năm 1993 sẽ phù hợp với mệnh Kim, được phù trợ, giúp đỡ bởi Hỏa, nhưng cũng sẽ không vượt qua được chính bản thể khác của nó.

Trùng hợp và có mối tương quan với mệnh Kim, Thân Dậu được xếp và hạng 1 trong những hiện thân của ngũ hành.

Trong quá trình sinh trưởng, vị trí lâm quan của Thân Dậu cũng như của mệnh Kim là Thân, còn vị trí đế vượng là ở Dậu.

Cũng như mọi người đã biết, nếu được sinh ra 1 cách hoàn hảo, sinh ra đúng bài bản và đúng quy trình, không dư cũng không thiếu thì chắc chắn sẽ phát triển bình thường, sẽ vững chãi và bền bỉ với thời gian.

Hãy tưởng tượng điều tương tự với mệnh Kim.

Nếu được tạo ra 1 cách bài bản, nguyên chất, được tôi luyện qua môi trường khắc nghiệt thì chắc chắn sẽ bền vững, siêu bền, siêu cứng, siêu dai với ngoại lực,với thời gian, với mọi tác động từ phía bên ngoài, đây cũng có thể gọi là sự phù trợ, sự trợ giúp to lớn của Hỏa, Hỏa là nguồn động lực to lớn tôi luyện nên sự bền bỉ của Kim.

Tuy nhiên, núi cao còn có núi cao hơn, đó là quy luật, dù có hoàn hảo tới mức nào thì mọi thứ đều có khắc tinh của nó, chính vật đó có thể khắc chế chủ thể Kim, hay thậm chí còn có thể phá hoại cả Kim, đó chính là “ Kiếm Phong Kim “ – “ Đầu Kiếm Vàng “, dù vật có cững, bền bỉ, được tôi luyện gian khổ tới mức nào cũng không thể vượt qua được đầu kiếm vàng.

 

1994 Sơn Đầu Hỏa : Lửa trên núi. Thủ Thân Chi Cẩu : Chó giữ lấy mình. Càn Kim / Ly Hỏa. Là hiện thân của Của Trời là Tuất Hợi, kết hợp với việc Giáp Ất thuộc Mộc cho nên có thể có khả năng đốt lửa soi sáng cả cửa trời. Ánh lửa của Tuất Hợi kết hợp với Giáp Ất chắc chắn sẽ bốc lên cực cao mới có thể làm cho cả vùng trời, bao gồm cả cửa trời có thể sáng lóa hơn bao giờ hết.

Điều đó giải nghĩa cho việc tại sao nó lại có tên là Lửa trên núi ( núi được xem là ranh giới giữa trời và đất, là nơi gần với ánh mặt trời nhất ở trần gian ).

Lửa trên núi sẽ khắc họa rõ nhất sự tỏa sáng của ánh mặt trời vào chiều tà, khi mà mặt trời dần xuống núi, ánh mặt trời ở mức tỏa sáng thấp nhất, nhưng, với ánh lửa của Tuất Hợi và Giáp Ất, ánh sáng đó sẽ phát tinh quân, tỏa sáng hơn bất cứ thứ gì trên bầu trời lúc chiều tà.

Lửa trên núi ( Sơn đầu Hỏa ) là khu vực có thể thông với trời, gần với trời nhất nên mệnh này rất may mắn và giàu sang, mệnh này rất quý và chắc chắn sẽ phồn vinh, phát triển trong tương lai.

Lưu ý rằng, Núi phải có cây như Sơn phải có Mộc, phải phát Hỏa tại vị trí đỉnh núi mới có thể tạo ra 1 đợt ánh sáng lung linh nhất của mặt trời, nếu chỉ có Mộc mà không có Hỏa thì ánh mặt trời cũng không tỏa sáng hết công suất của nó. Còn nếu có Hỏa nhưng không có Mộc thì đó cũng chỉ là 1 ánh lửa nhá nhem, không phát quang được ánh mặt trời, không chạm được sức nóng của mình đến với cổng trời.

Lửa ở núi chắc chắn sẽ khắc Thủy, cho nên nếu gặp phải đại hải thủy ngay lúc lửa chạm đến cổng trời thì đó là điều đáng lo ngại, tại họa sắp đến và mang lại tai kiếp khủng khiếp, cũng như mệnh Tuất Hợp – Giáp Ất gặp phải khắc tinh Nhâm Tuất – Quý Hợi.

 

1995 Sơn Đầu Hỏa : Lửa trên núi. Quá Vãng Chi Trư : Lợn hay đi. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Tương quan với những người sinh năm 1994, người mang mệnh 1995 là Tuất Hợt và Giáp Ất sẽ phát triển nếu gặp quý nhân mệnh Hỏa, nhưng sẽ gặp phải hung thần là người mệnh Thủy, khắc tinh là Nhâm Tuất – Quý Hợi.

Là hiện thân của Của Trời là Tuất Hợi, kết hợp với việc Giáp Ất thuộc Mộc cho nên có thể có khả năng đốt lửa soi sáng cả cửa trời. Ánh lửa của Tuất Hợi kết hợp với Giáp Ất chắc chắn sẽ bốc lên cực cao mới có thể làm cho cả vùng trời, bao gồm cả cửa trời có thể sáng lóa hơn bao giờ hết.

Điều đó giải nghĩa cho việc tại sao nó lại có tên là Lửa trên núi ( núi được xem là ranh giới giữa trời và đất, là nơi gần với ánh mặt trời nhất ở trần gian ).

Lửa trên núi sẽ khắc họa rõ nhất sự tỏa sáng của ánh mặt trời vào chiều tà, khi mà mặt trời dần xuống núi, ánh mặt trời ở mức tỏa sáng thấp nhất, nhưng, với ánh lửa của Tuất Hợi và Giáp Ất, ánh sáng đó sẽ phát tinh quân, tỏa sáng hơn bất cứ thứ gì trên bầu trời lúc chiều tà.

Lửa trên núi ( Sơn đầu Hỏa ) là khu vực có thể thông với trời, gần với trời nhất nên mệnh này rất may mắn và giàu sang, mệnh này rất quý và chắc chắn sẽ phồn vinh, phát triển trong tương lai.

Lưu ý rằng, Núi phải có cây như Sơn phải có Mộc, phải phát Hỏa tại vị trí đỉnh núi mới có thể tạo ra 1 đợt ánh sáng lung linh nhất của mặt trời, nếu chỉ có Mộc mà không có Hỏa thì ánh mặt trời cũng không tỏa sáng hết công suất của nó. Còn nếu có Hỏa nhưng không có Mộc thì đó cũng chỉ là 1 ánh lửa nhá nhem, không phát quang được ánh mặt trời, không chạm được sức nóng của mình đến với cổng trời.

Lửa ở núi chắc chắn sẽ khắc Thủy, cho nên nếu gặp phải đại hải thủy ngay lúc lửa chạm đến cổng trời thì đó là điều đáng lo ngại, tại họa sắp đến và mang lại tai kiếp khủng khiếp, cũng như mệnh Tuất Hợp – Giáp Ất gặp phải khắc tinh Nhâm Tuất – Quý Hợi.

 

1996 Giãn Hạ Thủy : Nước dưới khe. Điền Nội Chi Thử : Chuột trong ruộng. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Thịnh vượng ở Tí, suy yếu dần ở Sửu, đó là số mệnh của Thủy trong ngũ hành các năm cho nên Thủy trong Bính Tý Đinh Sửu không thể gọi là nước ở sông , nước ở biển mà là nước ở khe suối, vì nó đã bị suy yếu dần khi thời gian trôi dần về sau.

Khi mới hình thành, mới bắt đầu được sinh ra thì thánh thót, lăn tăn, gợn song, rồi dần dần hợp lại với các dòng chảy khác, hợp với những dòng nước khác tạo thành dòng nước chảy xiết nhưng không may mắn va phải nhiều trở ngại, đá cây mà bị phân tách, tung tóe thành những mảnh nhỏ như hạt tuyết. cuối cùng số phận của Giãn Hạ Thủy là tích hợp các tinh thể trôi về hạ lưu của nhiều nhánh khác nhau, không thống nhất được lại với nhau mà cứ tách ra dần từ 1 khối lớn thành các khối nhỏ dần nhỏ dần và bị hòa tan ở hạ lưu.

Với hình dạng của khe nước thì hình dạng của Giãn Hạ Thủy chắc chắn sẽ là mảnh khảnh, thanh mảnh, mềm yếu, thon thả và dế bị phân hủy.

Theo như trong sách phong thủy thì mệnh Thủy phù hợp với Kim, phù hợp gặt cát và kim lưỡi kiếm  ( Giáp ngọ ất mùi sa trung kim , nhâm thân quý dậu kim lưỡi kiếm ) nhưng Thủy lại khắc với Hỏa và Thổ. Thủy và Hỏa vốn là 2 thái cực, vốn chẳng thể hòa thuận chẳng thể nào về chung 1 nhà, Thổ lại là tác nhân là cho Thủy thêm bẩn thêm đục, thêm dơ, cho nên cần phải tránh gặp mặt, quen biết 2 mệnh này ( Hỏa Thổ ).

Tốt nhất đối với người mệnh này vẫn là Giáp Dần – Ất Mão ( giáp dần ất mão đại khuê thủy ), đây là các mệnh tương hợp, có thể giúp đỡ nhau phát triển, hợp lại với nhau thành 1 nhánh sông lớn hay còn gọi là 1 con suối nhỏ, từ đó chảy dần về các con sông lớn hơn, càng chảy càng dài mà chẳng cần phải lo nghĩ bị phá hủy hay phân thành những mãnh nhỏ hơn.

 

1997 Giãn Hạ Thủy : Nước dưới khe. Hồ Nội Chi Ngưu : Trâu trong hồ nước. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Thịnh vượng ở Tí, suy yếu dần ở Sửu, đó là số mệnh của Thủy trong ngũ hành các năm cho nên Thủy trong Bính Tý Đinh Sửu không thể gọi là nước ở sông , nước ở biển mà là nước ở khe suối, vì nó đã bị suy yếu dần khi thời gian trôi dần về sau.

Khi mới hình thành, mới bắt đầu được sinh ra thì thánh thót, lăn tăn, gợn song, rồi dần dần hợp lại với các dòng chảy khác, hợp với những dòng nước khác tạo thành dòng nước chảy xiết nhưng không may mắn va phải nhiều trở ngại, đá cây mà bị phân tách, tung tóe thành những mảnh nhỏ như hạt tuyết. cuối cùng số phận của Giãn Hạ Thủy là tích hợp các tinh thể trôi về hạ lưu của nhiều nhánh khác nhau, không thống nhất được lại với nhau mà cứ tách ra dần từ 1 khối lớn thành các khối nhỏ dần nhỏ dần và bị hòa tan ở hạ lưu.

Với hình dạng của khe nước thì hình dạng của Giãn Hạ Thủy chắc chắn sẽ là mảnh khảnh, thanh mảnh, mềm yếu, thon thả và dế bị phân hủy.

Theo như trong sách phong thủy thì mệnh Thủy phù hợp với Kim, phù hợp gặt cát và kim lưỡi kiếm  ( Giáp ngọ ất mùi sa trung kim , nhâm thân quý dậu kim lưỡi kiếm ) nhưng Thủy lại khắc với Hỏa và Thổ. Thủy và Hỏa vốn là 2 thái cực, vốn chẳng thể hòa thuận chẳng thể nào về chung 1 nhà, Thổ lại là tác nhân là cho Thủy thêm bẩn thêm đục, thêm dơ, cho nên cần phải tránh gặp mặt, quen biết 2 mệnh này ( Hỏa Thổ ).

Tốt nhất đối với người mệnh này vẫn là Giáp Dần – Ất Mão ( giáp dần ất mão đại khuê thủy ), đây là các mệnh tương hợp, có thể giúp đỡ nhau phát triển, hợp lại với nhau thành 1 nhánh sông lớn hay còn gọi là 1 con suối nhỏ, từ đó chảy dần về các con sông lớn hơn, càng chảy càng dài mà chẳng cần phải lo nghĩ bị phá hủy hay phân thành những mãnh nhỏ hơn.

 

1998 Thành Đầu Thổ : Đất trên thành. Quá Sơn Chi Hổ : Hổ qua rừng. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Theo như ngũ hành, 1 trong những mệnh thuộc Thổ và Mộc theo thứ tự là Thiên Can – Mậu Kĩ , Dần – Mão.

Cũng giống như việc tích đất thành núi, càng nhiều đất đai được bù đắp vào ( thổ thịnh ) sẽ phát triển thành núi,  mà khi phát triển thành núi thì không thể thiếu vắng sự góp mặt của cây cối ( sinh Mộc ), hay có thể hiểu ở 1 phạm vi nhỏ hơn, đó là dùng đất ( Thổ ) để xây dựng nên những bức tường thành, những nơi an cư lạc nghiệp, xây dựng nên mái ấm gia đình cũng từ đất và cây ( Thổ – Mộc ).

Điều này đã được minh chứng từ xưa, khi các nhà vua dùng Đất và Cây ( Thổ và Mộc ) để xây dựng cung điện, xây dựng những tòa thành vững chải và những tượng đài nguy nga, hàng trăm bức tượng sư tử được hình thành, hàng trăm con rồng được tạo ra bay  lượn hàng trăm dặm quanh các tòa thành, cung điện, hình tượng mãnh hỗ cũng từ đó được dựng nên, tọa thế trấn cả 4 phương trời.

Tuy nhiên, mệnh này nếu gặp nước, gặp núi là hiển quy. Nếu ở trong thành mà gặp phải núi, gặp phải nước thì chắc chắn núi giả, nước tù thì càng không phải là quý hiếm gì. Cho nên mệnh này nên kỵ với  Nhâm Tuất – Quý Hợi ( Đại Hải Thủy ) , Mậu Tý – Kỉ Sửu ( Bích Lôi Hỏa , Tích Lịch Hỏa ).

 

1999 Thành Đầu Thổ : Đất trên thành. Sơn Lâm Chi Mão : Mèo ở rừng. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Cũng tương tự như những người được sinh vào năm 1998, những người sinh vào năm 1999 cũng sẽ phù hợp với Mộc – Thổ, kị với Thủy Hỏa.

Theo như ngũ hành, 1 trong những mệnh thuộc Thổ và Mộc theo thứ tự là Thiên Can – Mậu Kĩ , Dần – Mão.

Cũng giống như việc tích đất thành núi, càng nhiều đất đai được bù đắp vào ( thổ thịnh ) sẽ phát triển thành núi,  mà khi phát triển thành núi thì không thể thiếu vắng sự góp mặt của cây cối ( sinh Mộc ), hay có thể hiểu ở 1 phạm vi nhỏ hơn, đó là dùng đất ( Thổ ) để xây dựng nên những bức tường thành, những nơi an cư lạc nghiệp, xây dựng nên mái ấm gia đình cũng từ đất và cây ( Thổ – Mộc ).

Điều này đã được minh chứng từ xưa, khi các nhà vua dùng Đất và Cây ( Thổ và Mộc ) để xây dựng cung điện, xây dựng những tòa thành vững chải và những tượng đài nguy nga, hàng trăm bức tượng sư tử được hình thành, hàng trăm con rồng được tạo ra bay  lượn hàng trăm dặm quanh các tòa thành, cung điện, hình tượng mãnh hỗ cũng từ đó được dựng nên, tọa thế trấn cả 4 phương trời.

Tuy nhiên, mệnh này nếu gặp nước, gặp núi là hiển quy. Nếu ở trong thành mà gặp phải núi, gặp phải nước thì chắc chắn núi giả, nước tù thì càng không phải là quý hiếm gì. Cho nên mệnh này nên kỵ với  Nhâm Tuất – Quý Hợi ( Đại Hải Thủy ) , Mậu Tý – Kỉ Sửu ( Bích Lôi Hỏa , Tích Lịch Hỏa ).

 

2000 Bạch Lạp Kim : Vàng trong nền rắn. Thứ Tính Chi Long : Rồng khoan dung. Ly Hỏa / Càn Kim. Mệnh Kim được hình thành trong đất ( hay còn gọi là Mộc sinh Kim ). Nhưng sau đó thì Kim phải ở cùng với Hỏa để có thể có được hình thái hoàn mỹ nhất, cứng cỏi nhất.

Lúc đầu, khi mới được hình thành và chưa đạt được hình thái hoàn mỹ nhất, Kim được gọi là Kim giá đèn, tức chỉ được dùng để treo những vật nhẹ, còn yếu ớt, chưa thật sự cứng cáp và vững vàng.

Khi khí của Kim vừa mới hình thành và phát triển, Kim giao thoa, phối hợp với tinh hoa của Âm dương, đất trời, tạo nên khí thịnh.

Khi vừa hình thành Kim giá đèn thích ứng với Thủy và tương hợp với Thủy như Canh thìn, Tân Tỵ  gặp được Ất Tỵ, có thể ví như hổ thêm cánh, “ Mãnh hỗ phong cánh “, cuộc sống, thi cử, học tập, công việc trở nên suôn sẻ, tốt đẹp, thuận tiện và phát triển cao xa hơn.

Thích hợp nhất với Kim sẽ là Ất Dậu và Quý Tỵ. Trong ngũ hành số mệnh, người ta gọi đó là Quý Mệnh.

Bởi vì Bạch Lạp Kim tính vốn yếu ớt, dễ vỡ cho nên sẽ khắc với Mộc, sợ Mộc, trừ khi Bạch Lạp Kim gặp phải Hỏa yếu, gặp phải lửa suy mới cần phải có sự trợ giúp ngược lại của Mộc, dựa vào Mộc để phát huy thêm sức mạnh của Hỏa, từ đó gia tăng thêm sự vững bền của Bạch Lạp Kim.

 

2001 Bạch Lạp Kim : Vàng trong nền rắn. Đông Tàn Chi Xà : Rắn ngủ đông. Cấn Thổ / Đoài Kim. Cũng giống như năm 2000, những người sinh năm 2001 dựa vào Hỏa, nhờ hỏa để phát triển tốt hơn, nếu gặp hỏa yếu thì cần phối hợp với mộc để tăng cường năng lực.

Mệnh Kim được hình thành trong đất ( hay còn gọi là Mộc sinh Kim ). Nhưng sau đó thì Kim phải ở cùng với Hỏa để có thể có được hình thái hoàn mỹ nhất, cứng cỏi nhất.

Lúc đầu, khi mới được hình thành và chưa đạt được hình thái hoàn mỹ nhất, Kim được gọi là Kim giá đèn, tức chỉ được dùng để treo những vật nhẹ, còn yếu ớt, chưa thật sự cứng cáp và vững vàng.

Khi khí của Kim vừa mới hình thành và phát triển, Kim giao thoa, phối hợp với tinh hoa của Âm dương, đất trời, tạo nên khí thịnh.

Khi vừa hình thành Kim giá đèn thích ứng với Thủy và tương hợp với Thủy như Canh thìn, Tân Tỵ  gặp được Ất Tỵ, có thể ví như hổ thêm cánh, “ Mãnh hỗ phong cánh “, cuộc sống, thi cử, học tập, công việc trở nên suôn sẻ, tốt đẹp, thuận tiện và phát triển cao xa hơn.

Thích hợp nhất với Kim sẽ là Ất Dậu và Quý Tỵ. Trong ngũ hành số mệnh, người ta gọi đó là Quý Mệnh.

Bởi vì Bạch Lạp Kim tính vốn yếu ớt, dễ vỡ cho nên sẽ khắc với Mộc, sợ Mộc, trừ khi Bạch Lạp Kim gặp phải Hỏa yếu, gặp phải lửa suy mới cần phải có sự trợ giúp ngược lại của Mộc, dựa vào Mộc để phát huy thêm sức mạnh của Hỏa, từ đó gia tăng thêm sự vững bền của Bạch Lạp Kim.

 

2002 Dương Liễu Mộc : Cây dương liễu. Quân Trung Chi Mã : Ngựa chiến trung thần. Đoài Kim / Cấn Thổ. Mộc tử ở Ngọ mộ, tàn ở Mùi.

Một khi Mộc đã tử, đã dựng nên mộ tang, thì chỉ còn cách dùng Thiên Can Nhâm Quý Thủy để cứu sống nó trở lại như thuyết ngũ hành đã đề cập.

Nhưng rốt cuộc thì sau khi được cứu sống dậy, với sức sống mới được hình thành, Mộc vẫn chỉ là sơ sinh, vẫn còn yếu ớt và non kém, vẫn cần rất nhiều đến sự giúp đỡ của Thổ để trở nên vững bền hơn, mạnh mẽ hơn và sức chịu đựng tốt hơn. Nó cũng giống như tằm, nhả vạn mối dây tơ thì nếu nằm riêng lẻ và mới được phóng ra, nó vẫn là những nợi mảnh khảnh nhỏ và dễ đứt, cho đến khi có nhiều sợi hợp lại và tạo nên 1 khối bền vững.

Cây Dương Liễu ( tức Dương Liễu Mộc ) chỉ thích hợp với các mệnh Bính Tuất, Đinh Hợi thổ, nhưng nó lại thích ứng với Thủy, nếu gặp thủy lành, thủy tốt, sẽ làm cho thổ tốt, thổ giàu sẽ chia sẻ cho mộc, làm mộc phát triển.

Trừ Đại Hải Thủy ra, Dương Liễu Mộc có thể kết hợp hoàn hảo với các mệnh Thủy để phát triển mạnh mẽ, bền vững hơn.

Bản tấy Dương Liễu Mộc dù sao cũng là cây cỏ, cho nên dễ bị phá hủy, bị thiêu rụi bởi Hỏa, nếu gặp phải những người mệnh Hỏa như Canh Thìn, Tân Dậu thạch lựu mộc sẽ bị sự thịnh vượng của cây thạch lựu áp chế, khiến cho cây dương liễu bị áp chế, 1 đời bần tiện, cuộc sống bôn ba, khó khăn vất vả, khó có thể giàu sang.

 

2003 Dương Liễu Mộc : Cây dương liễu. Quần Nội Chi Dương : Dê trong bầy đàn. Càn Kim / Ly Hỏa. Cũng có thể so sánh và thấy sự tương đồng của năm 2002 và 2003 cũng là Dương Liễu Mộc, cũng là sự yếu đuối nhưng thịnh vượng nhờ Thổ và suy yếu do thạch lựu, bị tàn phá do Hỏa.

Mộc tử ở Ngọ mộ, tàn ở Mùi.

Một khi Mộc đã tử, đã dựng nên mộ tang, thì chỉ còn cách dùng Thiên Can Nhâm Quý Thủy để cứu sống nó trở lại như thuyết ngũ hành đã đề cập.

Nhưng rốt cuộc thì sau khi được cứu sống dậy, với sức sống mới được hình thành, Mộc vẫn chỉ là sơ sinh, vẫn còn yếu ớt và non kém, vẫn cần rất nhiều đến sự giúp đỡ của Thổ để trở nên vững bền hơn, mạnh mẽ hơn và sức chịu đựng tốt hơn. Nó cũng giống như tằm, nhả vạn mối dây tơ thì nếu nằm riêng lẻ và mới được phóng ra, nó vẫn là những nợi mảnh khảnh nhỏ và dễ đứt, cho đến khi có nhiều sợi hợp lại và tạo nên 1 khối bền vững.

Cây Dương Liễu ( tức Dương Liễu Mộc ) chỉ thích hợp với các mệnh Bính Tuất, Đinh Hợi thổ, nhưng nó lại thích ứng với Thủy, nếu gặp thủy lành, thủy tốt, sẽ làm cho thổ tốt, thổ giàu sẽ chia sẻ cho mộc, làm mộc phát triển.

Trừ Đại Hải Thủy ra, Dương Liễu Mộc có thể kết hợp hoàn hảo với các mệnh Thủy để phát triển mạnh mẽ, bền vững hơn.

Bản tấy Dương Liễu Mộc dù sao cũng là cây cỏ, cho nên dễ bị phá hủy, bị thiêu rụi bởi Hỏa, nếu gặp phải những người mệnh Hỏa như Canh Thìn, Tân Dậu thạch lựu mộc sẽ bị sự thịnh vượng của cây thạch lựu áp chế, khiến cho cây dương liễu bị áp chế, 1 đời bần tiện, cuộc sống bôn ba, khó khăn vất vả, khó có thể giàu sang.

 

2004 Tuyền Trung Thủy : Dưới giữa dòng suối. Quá Thụ Chi Hầu : Khỉ leo cây. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Đối với Kim kiếm, lộc của nó sẽ nằm ở Thân, vượng sẽ ở Dậu.

Kim sau khi phát triển bền vững, nhận được độ cứng ổn định, đủ vững vàng, đủ cứng cáp sẽ có thể dựa vào Hỏa để sinh Thủy. Nhưng hãy thử nghĩ xem, khi mà Kim kết hợp với Hỏa tạo ra Thủy thì chắc chắn đây không thể nào là Thủy vượng được, đó là Thủy tàn. Trong lúc vừa được tạo ra bởi Kim và Hỏa, Thủy này chỉ là 1 lượng ít ỏi,  cho nên sẽ được gọi là nước trong suối.

Còn nếu nói theo phong thủy thì có Kim, Thủy sẽ không bao giờ ngừng tạo ra và ngừng chảy, đó là theo tính chất cơ bản của nó, được hiểu ra từ nguồn gốc của nó.

Lấy Giáp Ngọ – Ất Mùi sa trung kim, Canh Tuất – Tân Hợi thoa xuyến kim là tốt nhất, hay nếu vô tình có thể gặp được Thủy hoặc Mộc cũng tốt.

Tuy nhiên, sẽ là hiếm hoi hơn nếu những người được sinh vào tứ trụ theo năm tháng ngày giờ. Năm và giờ đều có trụ là Thủy, ngày tháng, cả 2 đầu có trụ Mộc. Đây được gọi là người có mệnh Đại Phú Quý, sẽ mau chóng giàu có, may mắn, hạnh phúc, sự nghiệp phất lên như diều gặp gió, danh tiếng vang vọng 1 đời.

 

2005 Tuyền Trung Thủy : Nước giữa dòng sông. Xướng Ngọ Chi Kê : Gà gáy trưa. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Cũng là sự tương đồng với những người sinh năm 2004, những người sinh năm 2005 cũng sẽ thích hợp với mệnh Kim, sẽ là phù trợ đắc lực cho Thủy và có mệnh đại phú quý với tứ trụ.

Đối với Kim kiếm, lộc của nó sẽ nằm ở Thân, vượng sẽ ở Dậu.

Kim sau khi phát triển bền vững, nhận được độ cứng ổn định, đủ vững vàng, đủ cứng cáp sẽ có thể dựa vào Hỏa để sinh Thủy. Nhưng hãy thử nghĩ xem, khi mà Kim kết hợp với Hỏa tạo ra Thủy thì chắc chắn đây không thể nào là Thủy vượng được, đó là Thủy tàn. Trong lúc vừa được tạo ra bởi Kim và Hỏa, Thủy này chỉ là 1 lượng ít ỏi,  cho nên sẽ được gọi là nước trong suối.

Còn nếu nói theo phong thủy thì có Kim, Thủy sẽ không bao giờ ngừng tạo ra và ngừng chảy, đó là theo tính chất cơ bản của nó, được hiểu ra từ nguồn gốc của nó.

Lấy Giáp Ngọ – Ất Mùi sa trung kim, Canh Tuất – Tân Hợi thoa xuyến kim là tốt nhất, hay nếu vô tình có thể gặp được Thủy hoặc Mộc cũng tốt.

Tuy nhiên, sẽ là hiếm hoi hơn nếu những người được sinh vào tứ trụ theo năm tháng ngày giờ. Năm và giờ đều có trụ là Thủy, ngày tháng, cả 2 đầu có trụ Mộc. Đây được gọi là người có mệnh Đại Phú Quý, sẽ mau chóng giàu có, may mắn, hạnh phúc, sự nghiệp phất lên như diều gặp

gió, danh tiếng vang vọng 1 đời.

 

2006 Ốc Thượng Thổ : Đất trên nóc nhà. Tự Miên Chi Cẩu : Chó đang ngủ. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Xét theo như sách phong thủy thì Bính Đinh thuộc mệnh Hỏa, còn Tuất Hợi thì được ví như là đôi cánh của trời. Lửa đang bốc cháy ngùn ngụt, nghi ngút và mạnh mẽ như vậy nhưng tuyệt nhiên không ở dưới mặt đất mà lại là trên trời thì mặt đất, hay còn gọi là Thổ lúc này không phải là Thổ ở dưới đất nữa, nếu ở dưới đất sẽ không thể nào phò trợ, tiếp cận với Hỏa được,  Thổ này phải ở trên cao nên được gọi là Ốc Thượng Thổ ( Đất Trên Nóc Nhà ).

Nghe đến đây thì sẽ có nhiều mâu thuẫn, bởi đất làm sao có thể ở trên nóc nhà được, phải chăng lấy đất lợp trên mái nhà để tạo ra Ốc Thượng Thổ ?

Thực tế mà nói, trên mái nhà, luôn luôn là gạch, ngói, mà gạch ngói thì từ đâu ra, gạch ngói chính từ Thổ mà ra.

Tuất Hợi thì ví như Thổ, gặp phải thủy lại hóa thành bùn, đất để lâu kết hợp với nước sẽ bị mềm dẽo hóa, đất lúc này không còn cứng cáp nữa mà dễ dàng bị nhào nặn, tác động bên ngoài để thay đổi hình dáng. Nhưng nếu kết hợp giữ Thổ, Thủy và Hỏa, dưới sức nóng của Hỏa, những mảnh đất bị tác động bởi Thủy ( gọi tắt là Bùn ) sẽ được cô đặc lại, cấu trúc trở nên bền vững hơn, bề ngoài cứng cáp, vững vàng hơn, từ đó bùn mới có thể thành gạch, thành ngói để xây nhà, lợp phòng, lợp mái nhà.

Vì đất trên nhà đã là gạch, ngói, nhưng nếu chỉ riêng là gạch ngói thì không thể vững vàng trên mái mãi được, “ Thổ “ này cần sự giúp đỡ to lớn của Mộc để vững vàng hơn, tồn tại lâu dài hơn. Mộc sẽ là giá đỡ vững chải cho Ốc Thượng Thổ, sau đó có thể dùng Kim để tô điểm thêm cho Ốc Thượng Thổ, tăng thêm vẻ đẹp bên ngoài của nó.

Thổ trên mái nhà mà đính đầy Kim vàng, Kim huy hoàng thì là 1 điều đại cát đại quý, vận may phú quý muôn đời. Cho nên nếu mệnh Ốc Thượng Thổ này gặp phải Kim Phong Kiếm hoặc Kim Trang Sức đều sẽ là đại cát phú quý, đại lợi muôn đời.

Mặc dù suy cho cùng thì Ốc Thượng Thổ cũng sẽ sợ Hỏa, bởi nếu Hỏa quá thịnh thì dù có là Thổ được bọc Kim, Thổ được tôi luyện bền bỉ với thủy và Hỏa thì cũng sẽ bị thiêu rụi bởi sức nóng to lớn mà Hỏa thịnh tạo ra, nhưng nếu Hỏa thịnh đó là Thiên Thượng Hỏa thì lại là điều lành cho Ốc Thượng Thổ, vì dù là năng lượng từ Hỏa này rất lớn, nhưng đây là Hỏa lành, không đem lại tác hại lớn tới mức phá hủy Ốc Thượng Thổ, đây là 1 ánh lửa tốt, tượng trưng cho ánh nắng của mặt trời, chan hòa, ấm áp, mang lại ánh sáng cho khắp phương trời, còn gọi là mệnh phù trợ.

 

2007 Ốc Thượng Thổ : Đất trên nóc nhà. Quá Sơn Chi Trư : Lợn qua núi. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Được sanh là tương tự với Ốc Thượng Thổ của năm 2006, những người sinh năm 2007 cũng sẽ nhận được số mệnh tương tự khi qua sự tôi luyện của Thủy và Hỏa nhưng nếu là Hỏa thịnh thượng thì khác mà Thiên Thượng Hỏa thì sẽ khác.

Xét theo như sách phong thủy thì Bính Đinh thuộc mệnh Hỏa, còn Tuất Hợi thì được ví như là đôi cánh của trời. Lửa đang bốc cháy ngùn ngụt, nghi ngút và mạnh mẽ như vậy nhưng tuyệt nhiên không ở dưới mặt đất mà lại là trên trời thì mặt đất, hay còn gọi là Thổ lúc này không phải là Thổ ở dưới đất nữa, nếu ở dưới đất sẽ không thể nào phò trợ, tiếp cận với Hỏa được,  Thổ này phải ở trên cao nên được gọi là Ốc Thượng Thổ ( Đất Trên Nóc Nhà ).

Nghe đến đây thì sẽ có nhiều mâu thuẫn, bởi đất làm sao có thể ở trên nóc nhà được, phải chăng lấy đất lợp trên mái nhà để tạo ra Ốc Thượng Thổ ?

Thực tế mà nói, trên mái nhà, luôn luôn là gạch, ngói, mà gạch ngói thì từ đâu ra, gạch ngói chính từ Thổ mà ra.

Tuất Hợi thì ví như Thổ, gặp phải thủy lại hóa thành bùn, đất để lâu kết hợp với nước sẽ bị mềm dẽo hóa, đất lúc này không còn cứng cáp nữa mà dễ dàng bị nhào nặn, tác động bên ngoài để thay đổi hình dáng. Nhưng nếu kết hợp giữ Thổ, Thủy và Hỏa, dưới sức nóng của Hỏa, những mảnh đất bị tác động bởi Thủy ( gọi tắt là Bùn ) sẽ được cô đặc lại, cấu trúc trở nên bền vững hơn, bề ngoài cứng cáp, vững vàng hơn, từ đó bùn mới có thể thành gạch, thành ngói để xây nhà, lợp phòng, lợp mái nhà.

Vì đất trên nhà đã là gạch, ngói, nhưng nếu chỉ riêng là gạch ngói thì không thể vững vàng trên mái mãi được, “ Thổ “ này cần sự giúp đỡ to lớn của Mộc để vững vàng hơn, tồn tại lâu dài hơn. Mộc sẽ là giá đỡ vững chải cho Ốc Thượng Thổ, sau đó có thể dùng Kim để tô điểm thêm cho Ốc Thượng Thổ, tăng thêm vẻ đẹp bên ngoài của nó.

Thổ trên mái nhà mà đính đầy Kim vàng, Kim huy hoàng thì là 1 điều đại cát đại quý, vận may phú quý muôn đời. Cho nên nếu mệnh Ốc Thượng Thổ này gặp phải Kim Phong Kiếm hoặc Kim Trang Sức đều sẽ là đại cát phú quý, đại lợi muôn đời.

Mặc dù suy cho cùng thì Ốc Thượng Thổ cũng sẽ sợ Hỏa, bởi nếu Hỏa quá thịnh thì dù có là Thổ được bọc Kim, Thổ được tôi luyện bền bỉ với thủy và Hỏa thì cũng sẽ bị thiêu rụi bởi sức nóng to lớn mà Hỏa thịnh tạo ra, nhưng nếu Hỏa thịnh đó là Thiên Thượng Hỏa thì lại là điều lành cho Ốc Thượng Thổ, vì dù là năng lượng từ Hỏa này rất lớn, nhưng đây là Hỏa lành, không đem lại tác hại lớn tới mức phá hủy Ốc Thượng Thổ, đây là 1 ánh lửa tốt, tượng trưng cho ánh nắng của mặt trời, chan hòa, ấm áp, mang lại ánh sáng cho khắp phương trời, còn gọi là mệnh phù trợ.

 

2008 Tích Lịch Hỏa : Lửa Sấm Sét. Thương Nội Chi Trư : Chuột trong kho. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Nếu chỉ là những loại Hỏa bình thường như  Phúc Đăng Hỏa ( lửa trong đèn dầu ) , Lư Trung Hỏa ( lửa trong bếp lò ), hay Sơn Đầu Hỏa ( lửa ở trên núi ) thì gặp phải Thủy sẽ bị dập tắt ngay.

Cơ bản thì Thủy và Hỏa đã luôn là 2 trường phái đối lập theo cả thuyết Âm – Dương lẫn Phong Thủy, trong thực tế cũng đã chứng minh, Thủy và Hỏa không thể nào cũng tồn tại song song trong 1 bản thể, không thể cùng tồn tại khi dung hòa vào nhau, trừ những trường hợp đặc biệt.

Những trường hợp đặc biệt này, chính là hiện tượng Thủy và Hỏa có thể cùng tồn tại trong cùng 1 bản thể, cùng 1 khoảng không gian và thời gian, cùng tạo ra 1 hiện tượng siêu nhiên khi … Hỏa quá thịnh, Hỏa thịnh trội hơn cả Thủy. Vấn đề này, các bạn sẽ hiểu được rõ nhất ở hiện tượng Sấm Sét.

Như các bạn đã biết thì Sấm Sét được hình thành ở trên bầu trời, nó sẽ thiêu rụi bất kì thứ gì nó chạm vào hoặc đi ngang hay ở cuối điểm mà nó sẽ đến, đó chính là Hỏa với bản tính phá hủy, thiêu rụi, nhưng trên bầu trời luôn luôn là những đám mây, dù là mây đen hay mây trắng, nó được hình thành bởi những giọt nước, những hạt nước ngưng đọng từ dưới mặt hồ, mặt sông, mặt biển, bay lên trời cao và tích tụ tạo thành mây.

Vậy, tại sao Hỏa lại có thể tồn tại khi có sự hiện diện của Thủy trên trời và thậm chí còn có thể tạo ra Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), hay Thiên Thượng Hỏa ( lửa trên trời ), đó là vì Hỏa này là Hỏa thịnh, nó phát triển đến mức vượt qua cả quy luật. Khi gặp Thủy, 2 loại Hỏa này là Tích Lịch Hỏa và Thiên Thượng Hỏa sẽ càng phát huy tác dụng cao hơn, chính khí âm của Thủy và khí dương của Hỏa sẽ tạo ra sấm sét trên bầu trời.

 

 

2009 Tích Lịch Hỏa : Lửa sấm sét. Lâm Nội Chi Ngưu : Trâu trong chuồng. Ly Hỏa / Càn Kim. Tương tự như những người sinh năm 2008, những Tích Lịch Hỏa năm 2009 cũng sẽ là 1 trong 2 ngọn lửa mạnh mẽ nhất, không bị dập tắt bởi Thủy mà còn kết hợp với Thủy tạo ra 1 hiện tượng siêu nhiên mạnh mẽ.

Vì nếu chỉ là những loại Hỏa bình thường như  Phúc Đăng Hỏa ( lửa trong đèn dầu ) , Lư Trung Hỏa ( lửa trong bếp lò ), hay Sơn Đầu Hỏa ( lửa ở trên núi ) thì gặp phải Thủy sẽ bị dập tắt ngay.

Cơ bản thì Thủy và Hỏa đã luôn là 2 trường phái đối lập theo cả thuyết Âm – Dương lẫn Phong Thủy, trong thực tế cũng đã chứng minh, Thủy và Hỏa không thể nào cũng tồn tại song song trong 1 bản thể, không thể cùng tồn tại khi dung hòa vào nhau, trừ những trường hợp đặc biệt.

Những trường hợp đặc biệt này, chính là hiện tượng Thủy và Hỏa có thể cùng tồn tại trong cùng 1 bản thể, cùng 1 khoảng không gian và thời gian, cùng tạo ra 1 hiện tượng siêu nhiên khi … Hỏa quá thịnh, Hỏa thịnh trội hơn cả Thủy. Vấn đề này, các bạn sẽ hiểu được rõ nhất ở hiện tượng Sấm Sét.

Như các bạn đã biết thì Sấm Sét được hình thành ở trên bầu trời, nó sẽ thiêu rụi bất kì thứ gì nó chạm vào hoặc đi ngang hay ở cuối điểm mà nó sẽ đến, đó chính là Hỏa với bản tính phá hủy, thiêu rụi, nhưng trên bầu trời luôn luôn là những đám mây, dù là mây đen hay mây trắng, nó được hình thành bởi những giọt nước, những hạt nước ngưng đọng từ dưới mặt hồ, mặt sông, mặt biển, bay lên trời cao và tích tụ tạo thành mây.

Vậy, tại sao Hỏa lại có thể tồn tại khi có sự hiện diện của Thủy trên trời và thậm chí còn có thể tạo ra Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), hay Thiên Thượng Hỏa ( lửa trên trời ), đó là vì Hỏa này là Hỏa thịnh, nó phát triển đến mức vượt qua cả quy luật. Khi gặp Thủy, 2 loại Hỏa này là Tích Lịch Hỏa và Thiên Thượng Hỏa sẽ càng phát huy tác dụng cao hơn, chính khí âm của Thủy và khí dương của Hỏa sẽ tạo ra sấm sét trên bầu trời.

 

 

2010 Tùng Bách Mộc : Cây tùng bách. Xuất Sơn Chi Hổ : Hổ xuống núi. Cấn Thổ / Đoài Kim. Theo như thuyết ngũ hành phong thủy, Mộc sẽ là hệ được trưởng thành ở Dần, thịnh vượng và phát triển hơn ở Mão.

Bản chất cây tùng là 1 trong những loại cây có sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt cho nên các loại Hỏa hay Thủy bình thường sẽ khó mà có thể đốn hạ được nó, trong Hỏa thì chỉ có thể là Bính Dần, Đinh Mão là Lư Trung Hỏa ( lửa trong bếp lò ), còn Thủy thì chỉ có Nhâm Tuất, Quý Hợi là Đại Hải Thủy ( nước lớn ) mới có khả năng đốn hạ được nó, còn lại tất cả các loại Hỏa – Thủy kia đều là vô hại.

Tùng Bách Mộc vốn được sinh ra đã là thịnh vượng, không phải yếu đuối, tích tụ huyết sắc, hứng sương sớm ban mai, tiếp nhận ánh nắng mặt trời, chịu đựng những cơn gió thổi vi vu ngang qua từng đợt, tạo nên những tiếng kêu êm dịu, những tiếng kêu vi vu như tiếng đàn  du dương, hay là 1 dàn hợp xướng với tiếng kêu vi vu của lá và gió, còn cành kia là những khán giả với những lá cờ bay phất phới trên tay.

Tùng Bách Mộc sợ nhất là gặp Đại Lâm Mộc, Dương Liễu Mộc, tuy cùng là Mộc với nhau nhưng chúng không giống với nhau. Tùng Bách Mộc thích gặp Kim, nếu gặp được Kim thì đó là mệnh đại phú quý, trong khi Đại Lâm Mộc và Dương Liễu Mộc lại là những kẻ tham lam, hay đố kị.

Ngoài ra, với Tùng Bách Mộc còn có 1 mệnh đại phú quý gọi là “ Thượng Tùng Đông Tú “, tức là năm sinh có 3 trụ tháng – ngày – giờ thuộc vào hàng đông tức ( Nhâm Quý, Hợi Tý thuộc vào Đông tức ), mệnh này được truyền lại là mệnh đại phú quý theo như trong sách.

 

2011 Tùng Bách Mộc : Cây tùng bách. Ẩn Huyệt Chi Mão : Mèo trong hang. Đoài Kim / Cấn Thổ. Tương quan với cây Tùng Bách ở năm 2010, những người trong năm 2011 cũng sẽ thuộc mệnh Mộc nhưng mạnh mẽ, không yếu đuối và khó bị tiêu diệt.

Theo như thuyết ngũ hành phong thủy, Mộc sẽ là hệ được trưởng thành ở Dần, thịnh vượng và phát triển hơn ở Mão.

Bản chất cây tùng là 1 trong những loại cây có sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt cho nên các loại Hỏa hay Thủy bình thường sẽ khó mà có thể đốn hạ được nó, trong Hỏa thì chỉ có thể là Bính Dần, Đinh Mão là Lư Trung Hỏa ( lửa trong bếp lò ), còn Thủy thì chỉ có Nhâm Tuất, Quý Hợi là Đại Hải Thủy ( nước lớn ) mới có khả năng đốn hạ được nó, còn lại tất cả các loại Hỏa – Thủy kia đều là vô hại.

Tùng Bách Mộc vốn được sinh ra đã là thịnh vượng, không phải yếu đuối, tích tụ huyết sắc, hứng sương sớm ban mai, tiếp nhận ánh nắng mặt trời, chịu đựng những cơn gió thổi vi vu ngang qua từng đợt, tạo nên những tiếng kêu êm dịu, những tiếng kêu vi vu như tiếng đàn  du dương, hay là 1 dàn hợp xướng với tiếng kêu vi vu của lá và gió, còn cành kia là những khán giả với những lá cờ bay phất phới trên tay.

Tùng Bách Mộc sợ nhất là gặp Đại Lâm Mộc, Dương Liễu Mộc, tuy cùng là Mộc với nhau nhưng chúng không giống với nhau. Tùng Bách Mộc thích gặp Kim, nếu gặp được Kim thì đó là mệnh đại phú quý, trong khi Đại Lâm Mộc và Dương Liễu Mộc lại là những kẻ tham lam, hay đố kị.

Ngoài ra, với Tùng Bách Mộc còn có 1 mệnh đại phú quý gọi là “ Thượng Tùng Đông Tú “, tức là năm sinh có 3 trụ tháng – ngày – giờ thuộc vào hàng đông tức ( Nhâm Quý, Hợi Tý thuộc vào Đông tức ), mệnh này được truyền lại là mệnh đại phú quý theo như trong sách.

 

2012 Trường Lưu Thủy : Dòng nước lớn. Hành Vũ Chi Long : Rồng phun mưa. Càn Kim / Ly Hỏa. Theo như sách ngũ hành ghi chú thì, mệnh Thìn được ví với nơi tích trữ nước, còn Tỵ trong ngũ hành được ví là nơi sinh ra Kim.

Xét theo phương diện ngũ hành thì Kim sợ Thủy, nhưng Kim của Tỵ không phải thuần túy hoàn toàn là Kim, mà Kim của Tỵ có chứa hàm chất của Thủy, bởi vì nơi tích trữ nước là mệnh Thìn gặp phải Kim sinh thủy là Tỵ cho nên nguồn nước sẽ cứ tiến lên, kéo dài liên tục không ngừng, không bị ngắt quãng, gọi là nước sông dài.

Nước sông dài lấy quý là ở Đông Nam vì ở đây yên tĩnh.

Nước sông dài có thế, cứ tuôn chảy và cuồn cuộn, kéo dài không ngừng, không bị ngắt quãng, nếu gặp phải Kim có thể sinh Thủy như Tỵ là tốt nhất.

Tuy nhiên, mệnh này lại sợ gặp phải Thủy dữ như Đại Hải Thủy, vì nước quá nhiều sẽ gây úng, gây ngập, mang điềm xấu, đồng thời Thổ và Thủy tương khắc với nhau, không thể dung hòa được, cho nên gặp phải Bính Tuất, Đinh Hợi, Canh Tý, Tân Sửu là mệnh Thổ thì tránh được tai họa, lúc  này thì cần phải có Kim sinh Thủy ở lại ứng cứu cho Hành Vũ Chi Long.

Ngoài ra, đi ngược với điều mà ai cũng nghĩ, đó là Thủy Hỏa là tương khắc tuyệt đối, cho nên sẽ không bao giờ có thể trung hòa 2 mệnh này lại với nhau, phải tuyệt đối nên tránh cho 2 mệnh này gần lại với nhau. Nhưng sự thật sẽ không hẳn là tuyệt đối như thế, Nước sông dài nếu gặp phải Giáp Thìn, Ất Hợi, tuy 2 mệnh này có xuất thân là mệnh Hỏa theo thứ tự lần lượt là Phúc Đăng Hỏa ( lửa trên ngọn đèn ) và Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên sườn núi ) lại là điềm lành.

Nhưng nhìn chung thì Thìn cũng chính là Rồng, mà Rồng thì khi về với nước hay vào với lửa thì cũng đều có thể sinh tồn được. Tuy nhiên, tốt hơn thì Rồng nên về với biển mệnh, cách ngược lại thì sẽ là cực tốt, có thể gọi là gần với mệnh đạt phú quý, sẽ giàu sang, hạnh phúc, may mắn dài lâu.

 

2013 Trường Lưu Thủy : Dòng nước lớn. Thảo Trung Chi Xà : Rắn trong cỏ. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Tương tự như Trường Lưu Thủy của năm 2012, những con Rắn trong 2013 cũng sẽ là mệnh có khả năng sinh tồn cao cả trong nước lẫn lửa.

Bởi theo như sách ngũ hành ghi chú thì, mệnh Thìn được ví với nơi tích trữ nước, còn Tỵ trong ngũ hành được ví là nơi sinh ra Kim.

Xét theo phương diện ngũ hành thì Kim sợ Thủy, nhưng Kim của Tỵ không phải thuần túy hoàn toàn là Kim, mà Kim của Tỵ có chứa hàm chất của Thủy, bởi vì nơi tích trữ nước là mệnh Thìn gặp phải Kim sinh thủy là Tỵ cho nên nguồn nước sẽ cứ tiến lên, kéo dài liên tục không ngừng, không bị ngắt quãng, gọi là nước sông dài.

Nước sông dài lấy quý là ở Đông Nam vì ở đây yên tĩnh.

Nước sông dài có thế, cứ tuôn chảy và cuồn cuộn, kéo dài không ngừng, không bị ngắt quãng, nếu gặp phải Kim có thể sinh Thủy như Tỵ là tốt nhất.

Tuy nhiên, mệnh này lại sợ gặp phải Thủy dữ như Đại Hải Thủy, vì nước quá nhiều sẽ gây úng, gây ngập, mang điềm xấu, đồng thời Thổ và Thủy tương khắc với nhau, không thể dung hòa được, cho nên gặp phải Bính Tuất, Đinh Hợi, Canh Tý, Tân Sửu là mệnh Thổ thì tránh được tai họa, lúc  này thì cần phải có Kim sinh Thủy ở lại ứng cứu cho Hành Vũ Chi Long.

Ngoài ra, đi ngược với điều mà ai cũng nghĩ, đó là Thủy Hỏa là tương khắc tuyệt đối, cho nên sẽ không bao giờ có thể trung hòa 2 mệnh này lại với nhau, phải tuyệt đối nên tránh cho 2 mệnh này gần lại với nhau. Nhưng sự thật sẽ không hẳn là tuyệt đối như thế, Nước sông dài nếu gặp phải Giáp Thìn, Ất Hợi, tuy 2 mệnh này có xuất thân là mệnh Hỏa theo thứ tự lần lượt là Phúc Đăng Hỏa ( lửa trên ngọn đèn ) và Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên sườn núi ) lại là điềm lành.

Nhưng nhìn chung thì Thìn cũng chính là Rồng, mà Rồng thì khi về với nước hay vào với lửa thì cũng đều có thể sinh tồn được. Tuy nhiên, tốt hơn thì Rồng nên về với biển mệnh, cách ngược lại thì sẽ là cực tốt, có thể gọi là gần với mệnh đạt phú quý, sẽ giàu sang, hạnh phúc, may mắn dài lâu.

 

2014 Sa Trung Kim : Vàng trong cát. Vân Trung Chi Mã : Ngựa trong mây. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Theo như thuyết ngũ hành trong phong thủy thì Ngọ là mệnh đế vượng của Hỏa, Mùi là nơi đế suy của Hỏa, mà Hỏa vượng thì Kim suy, chỉ khi nào Hỏa suy tàn thì Kim mới có thể phát triển vững mạnh, phát triển 1 cách bền bỉ được, còn nếu Hỏa cứ vượng thì Kim sẽ mãi mãi suy, không thể nào phát triển toàn diện, luôn luôn xuất hiện lỗi lầm và thậm chí có thể sẽ bị tiêu tan, hủy hoại bởi Hỏa.

Nếu Hỏa vừa mới bước vào giai đoạn suy yếu, thì song hành với đó là sự hình thành nền tảng phát triển của Kim, vì chỉ mới bước đầu hình thành nên còn yếu mềm và không vững vàng, không có lực để có thể lớn mạnh, cần có thời gian để phát triển hơn được gọi là Sa Trung Kim ( Vàng trong cát ).

Chính Sa Trung Kim vừa mới hình thành này mới cần đến sức mạnh của Hỏa vừa tàn để phát triển, dựa vào đó để mạnh mẽ hơn, cứng cáp hơn, dùng nó làm bàn đạp để phát triển, để tẩy luyện lên các cấp bậc cao hơn. Nhưng cũng hãy đề phòng, tránh để Hỏa vượng hơn nữa, nếu Hỏa tiếp tục lớn và mạnh hơn thì Sa Trung Kim này sẽ bị nung chảy, mất đi hình dạng và giảm sút sức mạnh.

Khi Hỏa quá vượng khiến cho Kim bại thì Mộc sẽ là tác nhân giúp điều chỉnh lại sự Thịnh – Suy của Kim. Đồng thời cũng nên lấy Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên núi ), Sơn Hạ Hỏa ( lửa dưới núi ), Phúc Đăng Hỏa ( lửa ngọn đèn ) tính chất ôn hòa mới có thể dể dàng tinh luyện Kim và điều hòa tính Thịnh – Suy của nó trước Hỏa.

Trong số mệnh cho rằng đây chính là số mệnh thường gặp của những thiếu gia nhà giàu, hưởng vinh hoa phú quý và luôn nhận được sự giúp đỡ, bao bọc của người thân, người quen, những người xung quanh. Sa Trung Kim sẽ cần đến Thủy tĩnh, sơ, vì nếu là Đại Hải Thủy hay nước lớn tiếp cận thì nó sẽ đè bẹp cát, phá hủy vị trí của cát, cuốn cát theo chiều của nó và chẳng nhận được lợi lộc gì. Cho nên đối với mệnh này cần phối hợp với Thiên Hà Thủy ( nước trên trời ), Đại Khuê Thủy ( nước trong suối ), Giãn Sơn Thủy ( nước khe núi ) mới gọi là tốt.

Sa Trung Kim cũng rất sợ Lộ Bàng Thổ ( đất giữa đường ), Sa Trung Thổ ( cát trong đất ), Mã Phi Thổ ( Đất vó ngựa ) vì sẽ bị những thứ đất này chôn vùi, ngày càng đi xuống và thậm chí là không thể phát triển được.

 

2015 Sa Trung Kim : Vàng trong đất. Kính Trọng Chi Dương : Dê được quý mến. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Cũng có thể nhận định mệnh này cùng với Sa Trung Kim của năm 2014, sẽ có những mệnh để nó phát triển tốt hơn nhưng cũng sẽ có mệnh kìm nén sự phát triển và làm nó thụt lùi trong cuộc sống.

Theo như thuyết ngũ hành trong phong thủy thì Ngọ là mệnh đế vượng của Hỏa, Mùi là nơi đế suy của Hỏa, mà Hỏa vượng thì Kim suy, chỉ khi nào Hỏa suy tàn thì Kim mới có thể phát triển vững mạnh, phát triển 1 cách bền bỉ được, còn nếu Hỏa cứ vượng thì Kim sẽ mãi mãi suy, không thể nào phát triển toàn diện, luôn luôn xuất hiện lỗi lầm và thậm chí có thể sẽ bị tiêu tan, hủy hoại bởi Hỏa.

Nếu Hỏa vừa mới bước vào giai đoạn suy yếu, thì song hành với đó là sự hình thành nền tảng phát triển của Kim, vì chỉ mới bước đầu hình thành nên còn yếu mềm và không vững vàng, không có lực để có thể lớn mạnh, cần có thời gian để phát triển hơn được gọi là Sa Trung Kim ( Vàng trong cát ).

Chính Sa Trung Kim vừa mới hình thành này mới cần đến sức mạnh của Hỏa vừa tàn để phát triển, dựa vào đó để mạnh mẽ hơn, cứng cáp hơn, dùng nó làm bàn đạp để phát triển, để tẩy luyện lên các cấp bậc cao hơn. Nhưng cũng hãy đề phòng, tránh để Hỏa vượng hơn nữa, nếu Hỏa tiếp tục lớn và mạnh hơn thì Sa Trung Kim này sẽ bị nung chảy, mất đi hình dạng và giảm sút sức mạnh.

Khi Hỏa quá vượng khiến cho Kim bại thì Mộc sẽ là tác nhân giúp điều chỉnh lại sự Thịnh – Suy của Kim. Đồng thời cũng nên lấy Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên núi ), Sơn Hạ Hỏa ( lửa dưới núi ), Phúc Đăng Hỏa ( lửa ngọn đèn ) tính chất ôn hòa mới có thể dể dàng tinh luyện Kim và điều hòa tính Thịnh – Suy của nó trước Hỏa.

Trong số mệnh cho rằng đây chính là số mệnh thường gặp của những thiếu gia nhà giàu, hưởng vinh hoa phú quý và luôn nhận được sự giúp đỡ, bao bọc của người thân, người quen, những người xung quanh. Sa Trung Kim sẽ cần đến Thủy tĩnh, sơ, vì nếu là Đại Hải Thủy hay nước lớn tiếp cận thì nó sẽ đè bẹp cát, phá hủy vị trí của cát, cuốn cát theo chiều của nó và chẳng nhận được lợi lộc gì. Cho nên đối với mệnh này cần phối hợp với Thiên Hà Thủy ( nước trên trời ), Đại Khuê Thủy ( nước trong suối ), Giãn Sơn Thủy ( nước khe núi ) mới gọi là tốt.

Sa Trung Kim cũng rất sợ Lộ Bàng Thổ ( đất giữa đường ), Sa Trung Thổ ( cát trong đất ), Mã Phi Thổ ( Đất vó ngựa ) vì sẽ bị những thứ đất này chôn vùi, ngày càng đi xuống và thậm chí là không thể phát triển được.

 

2016  Sơn Hạ Hỏa : lửa dưới núi. Sơn Thượng Chi Hầu : Khỉ trên núi. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Theo như sách ngũ hành phong thủy để lại thì Thân được ví như là nơi mở cửa để xuống dưới đất, còn Dậu là trường phái ngược lại, được ví là nơi đến với trời cao.

Theo như quy luật tự nhiên, mặt trời sẽ từ sườn núi phía đông lên cao, dần dần tỏa sáng cả 1 vùng trời, bao trùm cả 1 vùng trời, đem lại ánh sáng cho muôn loài, và rồi càng ngày ánh nắng càng yếu dần và lặn dần xuống phía dưới sườn núi phía tây. Ánh nắng mặt trời ngay lúc này, lúc vừa lặn xuống phía sau sườn núi gọi là Sơn Hạ Hỏa ( lửa dưới núi ), nếu lửa đã hạ được xuống dưới núi mà gặp phải Mộc thì đó là tương sinh, tương trợ, giúp phát triển hơn, hoàn thiện hơn và mạnh mẽ hơn.

Đặc biệt loại Sơn Hạ Hỏa này không thích hợp với 1 số loại Hỏa  có tính chất mạnh như Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên trời ), Phúc Đăng Hỏa ( lửa đèn dầu ), nếu gặp phải những loại Hỏa này, Sơn Hạ Hỏa sẽ bị lu mờ đi, không còn giữ được sự sáng suốt, thậm chí còn làm mất đi sự tinh tú của bản thân trước sự xuất hiện của những loại Hỏa trên.

2017 Sơn Hạ Hỏa : Lửa dưới núi. Độc Lập Chi Kê : Gà độc thân. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Trùng hợp với năm trước đó, những năm 2016, những ngọn lửa của năm 2017 cũng tương tự như thế,  tuân theo quy luật và cũng dễ bị lu mờ bởi những loại lửa khác của thế gian.

Theo như sách ngũ hành phong thủy để lại thì Thân được ví như là nơi mở cửa để xuống dưới đất, còn Dậu là trường phái ngược lại, được ví là nơi đến với trời cao.

Theo như quy luật tự nhiên, mặt trời sẽ từ sườn núi phía đông lên cao, dần dần tỏa sáng cả 1 vùng trời, bao trùm cả 1 vùng trời, đem lại ánh sáng cho muôn loài, và rồi càng ngày ánh nắng càng yếu dần và lặn dần xuống phía dưới sườn núi phía tây. Ánh nắng mặt trời ngay lúc này, lúc vừa lặn xuống phía sau sườn núi gọi là Sơn Hạ Hỏa ( lửa dưới núi ), nếu lửa đã hạ được xuống dưới núi mà gặp phải Mộc thì đó là tương sinh, tương trợ, giúp phát triển hơn, hoàn thiện hơn và mạnh mẽ hơn.

Đặc biệt loại Sơn Hạ Hỏa này không thích hợp với 1 số loại Hỏa  có tính chất mạnh như Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), Sơn Đầu Hỏa ( lửa trên trời ), Phúc Đăng Hỏa ( lửa đèn dầu ), nếu gặp phải những loại Hỏa này, Sơn Hạ Hỏa sẽ bị lu mờ đi, không còn giữ được sự sáng suốt, thậm chí còn làm mất đi sự tinh tú của bản thân trước sự xuất hiện của những loại Hỏa trên.

 

2018 Bình Địa Mộc : Cây ở đồng bằng. Tiến Sơn Chi Cẩu : Chó vào núi. Ly Hỏa / Càn Kim. Thuyết ngũ hành phong thủy cũng đã ghi nhận trong sách qua các đời rằng, Mậu chính là đồng bằng, còn Hợi sẽ là nơi sinh ra cây cối.

Ở đồng bằng, diện tích đất tuy rộng nhưng ít chất dinh dưỡng, hiệu quả khi trồng cây sẽ không tốt, không nhiều. Không thể nào 1 quần thể cây rộng lớn tồn tại được ở đây, bởi chất dinh dưỡng mà nó cung cấp không đủ cho tất cả, cho nên tồn tại được trên đất ở đồng bằng chỉ có thể là 1 nhóm cây nhỏ, nhóm cây này có thể phát triển bình thường được trong không gian của đồng bằng nên gọi nó là Bình Định Mộc ( cây ở đồng bằng ).

Cây ở đồng bằng thường sẽ thích mưa, vì mưa giúp cho nó sinh sôi, phát triển tốt hơn, giúp cho đất có khả năng hấp thu dinh dưỡng tốt hơn để cung cấp cho cây nhiều hơn nữa. Nhưng cây ở đồng bằng sẽ không thích sương, bởi không sống chung với quần thể, nó sống thành từng nhóm, nên sương xuống sẽ gây giá buốt, lạnh lẽo cho cây, khiến cây giảm dần đi sự hấp thu của mình.

Cũng vì sống thành nhóm nên sẽ không thích có quá nhiều đất, diện tích đất quá rộng vì như thế cây ở đồng bằng dễ bị con người tàn phá, khai thác gỗ để làm vật gia dụng. Mà để khai thác được gỗ của cây, cần có Kim, dùng Kim để tạo thành những vật dụng chặt phá, khai thác, nên khi gặp Kim, Bình Địa Mộc sẽ gặp bất lợi.

Bình Địa Mộc sẽ rất thích khi được phối hợp với Thủy, Thổ và Mộc, đây là các mệnh tương hợp, tương sinh và tương trợ, giúp đỡ nhau phát triển tốt hơn.

Ngoài ra, Bình Định Mộc còn có mệnh gọi là đại phú quý với tên “ hàn cốc hồi xuân “, tức là người này sinh ở mùa đông, trong mệnh lại gặp phải dần mão, mệnh này chăc chắn giàu sang, phú quý, hạnh phúc và may mắn trong thời gian dài. Cả 2 chi này đều thuộc vào mệnh Mộc cho nên có thể nói, nếu cây sinh trưởng được vào mùa đông, phát triển mạnh mẽ dựa trên cái giá buốt lạnh của mùa đông thì đó là điều vô cùng tuyệt vời, hay còn có thể gọi là mệnh quý.

2019 Bình Địa Mộc : cây ở đồng bằng. Đạo Viện Chi Trư : Lợn trong tu viện. Cấn Thổ / Đoài Kim Giống như những Bình Địa Mộc ở năm 2018, những Bình Địa Mộc ở năm 2019 cũng sẽ có số mệnh riêng của nó, cũng gặp mệnh để phát triển nhưng cũng gặp mệnh khiến nó phải thụt lùi.

Thuyết ngũ hành phong thủy cũng đã ghi nhận trong sách qua các đời rằng, Mậu chính là đồng bằng, còn Hợi sẽ là nơi sinh ra cây cối.

Ở đồng bằng, diện tích đất tuy rộng nhưng ít chất dinh dưỡng, hiệu quả khi trồng cây sẽ không tốt, không nhiều. Không thể nào 1 quần thể cây rộng lớn tồn tại được ở đây, bởi chất dinh dưỡng mà nó cung cấp không đủ cho tất cả, cho nên tồn tại được trên đất ở đồng bằng chỉ có thể là 1 nhóm cây nhỏ, nhóm cây này có thể phát triển bình thường được trong không gian của đồng bằng nên gọi nó là Bình Định Mộc ( cây ở đồng bằng ).

Cây ở đồng bằng thường sẽ thích mưa, vì mưa giúp cho nó sinh sôi, phát triển tốt hơn, giúp cho đất có khả năng hấp thu dinh dưỡng tốt hơn để cung cấp cho cây nhiều hơn nữa. Nhưng cây ở đồng bằng sẽ không thích sương, bởi không sống chung với quần thể, nó sống thành từng nhóm, nên sương xuống sẽ gây giá buốt, lạnh lẽo cho cây, khiến cây giảm dần đi sự hấp thu của mình.

Cũng vì sống thành nhóm nên sẽ không thích có quá nhiều đất, diện tích đất quá rộng vì như thế cây ở đồng bằng dễ bị con người tàn phá, khai thác gỗ để làm vật gia dụng. Mà để khai thác được gỗ của cây, cần có Kim, dùng Kim để tạo thành những vật dụng chặt phá, khai thác, nên khi gặp Kim, Bình Địa Mộc sẽ gặp bất lợi.

Bình Địa Mộc sẽ rất thích khi được phối hợp với Thủy, Thổ và Mộc, đây là các mệnh tương hợp, tương sinh và tương trợ, giúp đỡ nhau phát triển tốt hơn.

Ngoài ra, Bình Định Mộc còn có mệnh gọi là đại phú quý với tên “ hàn cốc hồi xuân “, tức là người này sinh ở mùa đông, trong mệnh lại gặp phải dần mão, mệnh này chăc chắn giàu sang, phú quý, hạnh phúc và may mắn trong thời gian dài. Cả 2 chi này đều thuộc vào mệnh Mộc cho nên có thể nói, nếu cây sinh trưởng được vào mùa đông, phát triển mạnh mẽ dựa trên cái giá buốt lạnh của mùa đông thì đó là điều vô cùng tuyệt vời, hay còn có thể gọi là mệnh quý.

 

2020 Bích Thượng Thổ : Đất trên vách. Lương Thượng Chi Thử : Chuột trên xà. Đoài Kim / Cấn Thổ. Xét theo vị thế trong sách ngũ hành phong thủy thì Sửu là chính vị của Thổ, còn Tý là nơi để Thủy thịnh.

Thổ vốn cứng rắng, bền bỉ, bao la, rộng lớn nhưng nếu gặp phải Thủy, mà phải là Thủy nhỏ thì sẽ giúp cho Thổ biến đổi thành bùn, và từ bùn này mới có thể tiến hành đắp đập, xây dựng thành tường, vì vậy cho nên mới gọi đây là Bích Thượng Thổ ( đất trên vách ).

Đất trên vách nếu muốn được chắc chắn hơn, bền bỉ hơn thì phải dựa vào Mộc, phải dựa vào Mộc, dựa vào cột, xà để vững vàng hơn, cho nên mệnh này gặp Mộc sẽ là điềm lành.

Nhưng mệnh này nếu gặp Hỏa, mà là Hỏa thịnh thì đó sẽ là điềm không tốt, sẽ bị cháy rụi, bị tàn phá, tiêu điều vì Hỏa thịnh. Còn nếu gặp Thủy cũng là 1 điềm tốt, nhưng trừ Đại Hải Thủy ( nước lớn ), nó sẽ làm ngập Bích Thượng Thổ, làm tiêu tan tất cả. xét đến mệnh Kim thì Bích Thượng Thổ chỉ thích hợp với các loại Kim bạc kim, vừa phải, phù hợp, không thái quá, tạo ra vẻ ngoài dễ chịu, dễ nhìn, nhưng ấn tượng mạnh.

 

2021 Bích Thượng Thổ : Đất trên vách. Lộ Đồ Chi Ngưu : Trâu trên đường. Càn Kim / Ly Hỏa. Xét theo vị thế trong sách ngũ hành phong thủy thì Sửu là chính vị của Thổ, còn Tý là nơi để Thủy thịnh.

Thổ vốn cứng rắng, bền bỉ, bao la, rộng lớn nhưng nếu gặp phải Thủy, mà phải là Thủy nhỏ thì sẽ giúp cho Thổ biến đổi thành bùn, và từ bùn này mới có thể tiến hành đắp đập, xây dựng thành tường, vì vậy cho nên mới gọi đây là Bích Thượng Thổ ( đất trên vách ).

Đất trên vách nếu muốn được chắc chắn hơn, bền bỉ hơn thì phải dựa vào Mộc, phải dựa vào Mộc, dựa vào cột, xà để vững vàng hơn, cho nên mệnh này gặp Mộc sẽ là điềm lành.

Nhưng mệnh này nếu gặp Hỏa, mà là Hỏa thịnh thì đó sẽ là điềm không tốt, sẽ bị cháy rụi, bị tàn phá, tiêu điều vì Hỏa thịnh. Còn nếu gặp Thủy cũng là 1 điềm tốt, nhưng trừ Đại Hải Thủy ( nước lớn ), nó sẽ làm ngập Bích Thượng Thổ, làm tiêu tan tất cả. xét đến mệnh Kim thì Bích Thượng Thổ chỉ thích hợp với các loại Kim bạch kim, vừa phải, phù hợp, không thái quá, tạo ra vẻ ngoài dễ chịu, dễ nhìn, nhưng ấn tượng mạnh.

 

2022 Kim Bạch Kim : Vàng pha bạch kim. Quá Lâm Chi Hổ : Hổ qua đường. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Trong sách phong thủy ngũ hành có ghi, Mộc chính vị ở Dần Mão gọi là Mộc vượng, còn Kim thì sẽ tuyệt nhất ở Dần, thai hóa ở Mão. Quy luật ngũ hành, Mộc thịnh Kim suy, 1 khi Mộc đã phát triển mạnh mẽ thì Kim không thể nào phát triển theo được, cũng như khi Kim phát triển tốt thì Mộc cũng khó có thể tồn tại được lâu dài.

Mà trong mệnh này, Kim là mệnh yếu hơn, Kim ở đây mềm yếu, dễ suy tàn, không có thực lực nên gọi là Kim trong trang sức, Kim để trang trí, không có bất kì sự thương tổn nào đến các vật dụng khác.

Người xưa dùng Kim Bạch Kim để chèn lên các chữ cái, giúp cho các chữ cái sáng bóng hơn, giữ được chữ trên Mộc lâu hơn, bền hơn, rõ nét hơn và lộng lẫy hơn,… ngày nay,  ngoài việc chèn lên chữ ở Mộc, Kim Bạch Kim còn được dùng để làm trang sức, dùng để tạo thành những món đồ làm đẹp không gây hại cho mọi người, mọi vật. Ánh sáng của Kim Bạch Kim giúp tôn vinh thêm vẻ đẹp của những điều mà nó bao bọc lấy, nó không chỉ tồn tại vì riêng nó, nó còn tồn tại vì bản thể khác, bản thể mà nó chở che, bao trùm lấy.

Nếu Kim Bạch Kim này gặp được Đất trên thành, Đất trên tường mới là quý, nó phù hợp trong việc trang trí thêm cho vẻ đẹp căn nhà của bạn, không gây hại nhưng lại đem lại lợi ích lớn cho vẻ bề ngoài của căn nhà, đồng thời cũng là cơ hội để mọi người biết đến nó, cơ hội để nó phát triển cao hơn, phổ biến hơn trong trang trí nhà cửa.

Trong sách cũng có để lại những lưu ý rằng, mệnh Kim Bạch Kim này nếu gặp phải Mậu Dần, đất trên thành thì gọi là “ Viên Ngọc Núi Côn Sơn “, quý hiếm, tỏa sáng, sức mạnh to lớn, khả năng lan tỏa mạnh mẽ. Còn nếu là Quý Mão gặp phải Kĩ Mảo trong Kim Bạch Kim cũng có thể gọi là “ Thổ Ngọc Đông Đăng “ là đất quý, kim quý. Cả 2 mệnh này đầu là mệnh quý hiếm, nếu được sinh ra là 1 trong 2 mệnh này, kết hợp với 1 số yếu tố thuận lợi khác thì sẽ là mệnh phú quý, tài vận bay xa, danh hoa 1 kiếp, vô tư 1 đời, vinh hoa phú quý khó mà hưởng hết được.

 

2023 Kim Bạch Kim : Vàng pha bạch kim. Quá Lâm Chi Mão : Mèo qua rừng. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Cũng như những gì truyền lại trong sách ngũ hành, những năm 2023 cũng sẽ là Kim Bạch Kim giống với những năm 2022.

Trong sách phong thủy ngũ hành có ghi, Mộc chính vị ở Dần Mão gọi là Mộc vượng, còn Kim thì sẽ tuyệt nhất ở Dần, thai hóa ở Mão. Quy luật ngũ hành, Mộc thịnh Kim suy, 1 khi Mộc đã phát triển mạnh mẽ thì Kim không thể nào phát triển theo được, cũng như khi Kim phát triển tốt thì Mộc cũng khó có thể tồn tại được lâu dài.

Mà trong mệnh này, Kim là mệnh yếu hơn, Kim ở đây mềm yếu, dễ suy tàn, không có thực lực nên gọi là Kim trong trang sức, Kim để trang trí, không có bất kì sự thương tổn nào đến các vật dụng khác.

Người xưa dùng Kim Bạch Kim để chèn lên các chữ cái, giúp cho các chữ cái sáng bóng hơn, giữ được chữ trên Mộc lâu hơn, bền hơn, rõ nét hơn và lộng lẫy hơn,… ngày nay,  ngoài việc chèn lên chữ ở Mộc, Kim Bạch Kim còn được dùng để làm trang sức, dùng để tạo thành những món đồ làm đẹp không gây hại cho mọi người, mọi vật. Ánh sáng của Kim Bạch Kim giúp tôn vinh thêm vẻ đẹp của những điều mà nó bao bọc lấy, nó không chỉ tồn tại vì riêng nó, nó còn tồn tại vì bản thể khác, bản thể mà nó chở che, bao trùm lấy.

Nếu Kim Bạch Kim này gặp được Đất trên thành, Đất trên tường mới là quý, nó phù hợp trong việc trang trí thêm cho vẻ đẹp căn nhà của bạn, không gây hại nhưng lại đem lại lợi ích lớn cho vẻ bề ngoài của căn nhà, đồng thời cũng là cơ hội để mọi người biết đến nó, cơ hội để nó phát triển cao hơn, phổ biến hơn trong trang trí nhà cửa.

Trong sách cũng có để lại những lưu ý rằng, mệnh Kim Bạch Kim này nếu gặp phải Mậu Dần, đất trên thành thì gọi là “ Viên Ngọc Núi Côn Sơn “, quý hiếm, tỏa sáng, sức mạnh to lớn, khả năng lan tỏa mạnh mẽ. Còn nếu là Quý Mão gặp phải Kĩ Mảo trong Kim Bạch Kim cũng có thể gọi là “ Thổ Ngọc Đông Đăng “ là đất quý, kim quý. Cả 2 mệnh này đầu là mệnh quý hiếm, nếu được sinh ra là 1 trong 2 mệnh này, kết hợp với 1 số yếu tố thuận lợi khác thì sẽ là mệnh phú quý, tài vận bay xa, danh hoa 1 kiếp, vô tư 1 đời, vinh hoa phú quý khó mà hưởng hết được.

 

2024 Phúc Đăng Hỏa : Lửa ngọn đèn. Phục Đầm Chi Long : Rồng ẩn trong đầm lầy. Chấn Mộc / Chấn Mộc Thìn tượng trưng cho ánh mặt trời lúc đã bắt đầu sáng, êm đềm, ấm áp. Còn Tỵ là hiện thân của nhưng ánh nắng chói chan, nắng nóng, mang lại sự khó chịu cho mọi người, đó là ánh nắng lúc giữa trưa, thời gian mà tia UV từ ánh nắng tác động mạnh nhất đến con người.

Một khi mặt trời đã chói sáng thì không cần phải đốt đèn, không cần bất kì thứ ánh sáng nào khác để vùng trời sáng thêm nữa, không gì có thể lấn áp được ánh sáng này của bầu trời. Mà khi ánh đèn này hiện lên trên bầu trời thì chỉ có thể gọi là Phúc Đăng Hỏa ( lửa trên ngọn đèn ), tuy yếu đuối, không thể lấn át được ánh sáng của mặt trời nhưng vẫn giữ được sự lung linh, vẫn tỏa sáng được những góc khuất của mặt đất, chính những Phúc Đăng Hỏa này sẽ giúp cho những nơi tăm tối của mặt đất, những nơi mà ánh sáng mặt trơi, mặt trăng không thể chạm đến có thể được phát quang, sáng hơn, thoát khỏi cuộc đời tăm tối mà hướng đến ánh sáng, dù là nhỏ nhất.

Ban đêm sẽ là khoảng thời gian mà Phúc Đăng Hỏa phát triển mạnh mẽ nhất, vì lúc này, ánh sáng của mặt trời đã dần suy yếu đi, mặt trăng cũng sẽ dần bị mây che phủ, duy chỉ còn Phúc Đăng Hỏa là tồn tại trên thế gian, tồn tại trên khắp bề mặt của Thổ.

Gỗ và Dầu sẽ là 2 thứ gắn liền với Phúc Đăng Hỏa và khó có thể tách ra được, Gỗ kích thích tạo lửa, dầu làm tăng sức mạnh của lửa, làm cho ngọn đèn sáng hơn, rõ hơn. Vì là chủ yếu phát sáng vào ban đêm, cho nên Phúc Đăng Hỏa sẽ kị ánh sáng mặt trời vào ban ngay, nó làm cho sự hiện diện của Phúc Đăng Hỏa không được mạnh mẽ, không đáng chú ý.

Dầu trong ngũ hành thuộc vào mệnh Thủy, cho nên xét theo mặt tự nhiên thì Phúc Đăng Hỏa nếu gặp được Mộc ( Gỗ ) và Thủy ( Dầu )  là điều tốt đẹp.

Phúc Đăng Hỏa có 2 mệnh được xem là mệnh quý theo như sách phong thủy :

+1 là “ che đèn thêm dầu “, điều này chỉ xảy ra khi Thủy mà Phúc Đăng Hỏa gặp được là nước dưới khe, nước dưới giếng, nước sông dài.

+2 là “ dưới đèn múa kím “, điều này thì sẽ xảy ra khi Phúc Đăng Hỏa gặp phải Kiếm Phùng Kim.

Cũng có 1 lưu ý khác dành cho Phúc Đăng Hỏa, đó là nên tránh xa Thổ trong ngũ hành, trừ Thổ của Bính Tuất, Đinh Hợi, hay Thổ trên mái nhà. Phúc Đăng Hỏa cũng thích Hỏa nhưng trừ Tích Lịch Hỏa và Hỏa Thần Rồng, vì tính năng của 2 loại Hỏa này quá mạnh cho nên sẽ dập tắt sự tỏa sáng của Phúc Đăng Hỏa.

 

2025 Phúc Đăng Hỏa : Lửa Ngọn đèn. Xuất Huyệt Chi Xà : Rắn rời hang. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Những ngọn lửa của năm 2025 cũng sẽ như những ngọn lửa của năm 2024, sẽ là ngọn lửa có khả năng chíu sáng nhưng cũng là ngọn lửa dễ bị lu mờ bởi sự xuất hiện của những yếu tố khác.

Trong sách ngũ hành thì Thìn tượng trưng cho ánh mặt trời lúc đã bắt đầu sáng, êm đềm, ấm áp. Còn Tỵ là hiện thân của nhưng ánh nắng chói chan, nắng nóng, mang lại sự khó chịu cho mọi người, đó là ánh nắng lúc giữa trưa, thời gian mà tia UV từ ánh nắng tác động mạnh nhất đến con người.

Một khi mặt trời đã chói sáng thì không cần phải đốt đèn, không cần bất kì thứ ánh sáng nào khác để vùng trời sáng thêm nữa, không gì có thể lấn áp được ánh sáng này của bầu trời. Mà khi ánh đèn này hiện lên trên bầu trời thì chỉ có thể gọi là Phúc Đăng Hỏa ( lửa trên ngọn đèn ), tuy yếu đuối, không thể lấn át được ánh sáng của mặt trời nhưng vẫn giữ được sự lung linh, vẫn tỏa sáng được những góc khuất của mặt đất, chính những Phúc Đăng Hỏa này sẽ giúp cho những nơi tăm tối của mặt đất, những nơi mà ánh sáng mặt trơi, mặt trăng không thể chạm đến có thể được phát quang, sáng hơn, thoát khỏi cuộc đời tăm tối mà hướng đến ánh sáng, dù là nhỏ nhất.

Ban đêm sẽ là khoảng thời gian mà Phúc Đăng Hỏa phát triển mạnh mẽ nhất, vì lúc này, ánh sáng của mặt trời đã dần suy yếu đi, mặt trăng cũng sẽ dần bị mây che phủ, duy chỉ còn Phúc Đăng Hỏa là tồn tại trên thế gian, tồn tại trên khắp bề mặt của Thổ.

Gỗ và Dầu sẽ là 2 thứ gắn liền với Phúc Đăng Hỏa và khó có thể tách ra được, Gỗ kích thích tạo lửa, dầu làm tăng sức mạnh của lửa, làm cho ngọn đèn sáng hơn, rõ hơn. Vì là chủ yếu phát sáng vào ban đêm, cho nên Phúc Đăng Hỏa sẽ kị ánh sáng mặt trời vào ban ngay, nó làm cho sự hiện diện của Phúc Đăng Hỏa không được mạnh mẽ, không đáng chú ý.

Dầu trong ngũ hành thuộc vào mệnh Thủy, cho nên xét theo mặt tự nhiên thì Phúc Đăng Hỏa nếu gặp được Mộc ( Gỗ ) và Thủy ( Dầu )  là điều tốt đẹp.

Phúc Đăng Hỏa có 2 mệnh được xem là mệnh quý theo như sách phong thủy :

+1 là “ che đèn thêm dầu “, điều này chỉ xảy ra khi Thủy mà Phúc Đăng Hỏa gặp được là nước dưới khe, nước dưới giếng, nước sông dài.

+2 là “ dưới đèn múa kím “, điều này thì sẽ xảy ra khi Phúc Đăng Hỏa gặp phải Kiếm Phùng Kim.

Cũng có 1 lưu ý khác dành cho Phúc Đăng Hỏa, đó là nên tránh xa Thổ trong ngũ hành, trừ Thổ của Bính Tuất, Đinh Hợi, hay Thổ trên mái nhà. Phúc Đăng Hỏa cũng thích Hỏa nhưng trừ Tích Lịch Hỏa và Hỏa Thần Rồng, vì tính năng của 2 loại Hỏa này quá mạnh cho nên sẽ dập tắt sự tỏa sáng của Phúc Đăng Hỏa.

 

 2026 Thiên Hà Thủy : Nước trên trời. Hành Lộ Chi Mã : Ngựa chạy trên đường. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Sách ngũ hành cho ghi rõ rằng, Ngọ là nơi chính vị của Hỏa, Ngọ sẽ làm cho Hỏa thành Hỏa vượng, nhưng Ngọ cũng chính là nơi nạp âm gọi thủy.

Có vẻ đối lập nhưng Thủy của Ngọ là Thủy từ trong Hỏa sinh ra, từ Hỏa mà thành, cho nên người ta gọi nó là Thiên Hà Thủy ( nước trên trời ), bởi nó thoát ra khỏi quy luật của tự nhiên, Thủy thậm chí không khắc Hỏa mà còn dung hòa với Hỏa tạo ra 1 loại Thủy mới. Nguyên khí của loại Thủy này khi lên cao là đạt cực đại, hóa thành những đám mây bao phủ và bay lượn khắp cả bầu trời trên cao, thống lĩnh gần như là cả bầu trời, đến mặt trời còn bị những đám mây này che lấp, làm ánh sáng của mặt trời yếu đi, và cũng chính những đám mây này, khi quá thịnh, thịnh vượng vượt quá mức sẽ tự động phân tách ra và tạo thành những cơn mưa rơi xuống trần gian. Việc này góp phần không hề nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển của vạn vật, chính những hạt mưa này đã giúp cho quá trình hình thánh và phát triển của vạn vật trở nên nhanh hơn, mạnh hơn.

Thiên Hà Thủy vốn là nước ở trên cao cho nên vạn vật thuộc ngũ hành dưới trần gian bao gồm cả Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ cũng không thể nào khắc chế được nó, thậm chí là cả Tích Lịch Hỏa, Thiên Long Hỏa cũng chỉ có thể dung hòa với Thiên Hà Thủy để tạo ra những hiện tượng thiên nhiên ở trần gian.

Duy nhất chỉ có 1 thứ xung khắc với nó, đó chính là Bích Thượng Thổ ( đất trên tường ), thuộc vào Canh Tý, Tân Mùi, vì khi nước trên trời rơi xuống, 2 loại Thổ này đã được bao bọc bởi Kim và mái cho nên không thể tiếp cận, và dù có bao nhiêu mưa rơi xuống thì cũng không thấm thía bao nhiu so với 2 loại Thổ trên.

 

2027 Thiên Hà Thủy : Nước trên trời. Thất Quần Chi Dương : Dê lạc đàn. Ly Hỏa / Càn Kim. Những hạt nước trên trời của người năm 2027 cũng sẽ là 1 hiện tượng tương trùng với những hạt nước trên trời của người năm 2026.

Sách ngũ hành cho ghi rõ rằng, Ngọ là nơi chính vị của Hỏa, Ngọ sẽ làm cho Hỏa thành Hỏa vượng, nhưng Ngọ cũng chính là nơi nạp âm gọi thủy.

Có vẻ đối lập nhưng Thủy của Ngọ là Thủy từ trong Hỏa sinh ra, từ Hỏa mà thành, cho nên người ta gọi nó là Thiên Hà Thủy ( nước trên trời ), bởi nó thoát ra khỏi quy luật của tự nhiên, Thủy thậm chí không khắc Hỏa mà còn dung hòa với Hỏa tạo ra 1 loại Thủy mới. Nguyên khí của loại Thủy này khi lên cao là đạt cực đại, hóa thành những đám mây bao phủ và bay lượn khắp cả bầu trời trên cao, thống lĩnh gần như là cả bầu trời, đến mặt trời còn bị những đám mây này che lấp, làm ánh sáng của mặt trời yếu đi, và cũng chính những đám mây này, khi quá thịnh, thịnh vượng vượt quá mức sẽ tự động phân tách ra và tạo thành những cơn mưa rơi xuống trần gian. Việc này góp phần không hề nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển của vạn vật, chính những hạt mưa này đã giúp cho quá trình hình thánh và phát triển của vạn vật trở nên nhanh hơn, mạnh hơn.

Thiên Hà Thủy vốn là nước ở trên cao cho nên vạn vật thuộc ngũ hành dưới trần gian bao gồm cả Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ cũng không thể nào khắc chế được nó, thậm chí là cả Tích Lịch Hỏa, Thiên Long Hỏa cũng chỉ có thể dung hòa với Thiên Hà Thủy để tạo ra những hiện tượng thiên nhiên ở trần gian.

Duy nhất chỉ có 1 thứ xung khắc với nó, đó chính là Bích Thượng Thổ ( đất trên tường ), thuộc vào Canh Tý, Tân Mùi, vì khi nước trên trời rơi xuống, 2 loại Thổ này đã được bao bọc bởi Kim và mái cho nên không thể tiếp cận, và dù có bao nhiêu mưa rơi xuống thì cũng không thấm thía bao nhiu so với 2 loại Thổ trên.

 

 

2028 Đại Dịch Thổ : Đất khu vực rộng lớn. Độc Lập Chi Hầu : Khỉ độc thân. Cấn Thổ / Đoài Kim. Quẻ Khôn trong ngũ hành phong thủy và trong bát quái mang ý nghĩa là Thổ ( đất ), cũng chính là Thân ( Hầu, Khỉ ), còn quẻ Đoài trong bát quái là ao, là đầm, cũng chính là Dậu ( Kê, Gà ). Mộc Kỉ là 1 trong những hành thuộc Thổ, nhưng nó không nằm sâu bên trong mặt đất, sâu bên trong những đầm lầy, ao hồ, mà nó nằm trên vùng ao hồ, nằm trên bề mặt như những hạt cát theo chân không khí mà bay quanh ao hồ cho nên gọi đây là Đất Dịch Chuyển.

Khi tất cả nguyên khí dần tụ hội và làm cho Đại Dịch Thổ lớn mạnh lên, nó sẽ tích cực tụ họp nguyên khí từ vạn vật, từ sự sinh trường và phát triển của vạn vật để về với đất, vê với nơi mà nó phải thuộc về.

Chính vì bản chất đó, Đại Dịch Thổ mang khuynh hướng cao của sự trở về, của sự trở về với bản tính của vạn vật.

Đại Dịch Thổ sẽ rất thích Thủy, đặc biệt là Thủy có tính chất êm dịu, ôn hòa, thanh mảnh, không mạnh bạo  và dồn dập như  Đại Hải Thủy, các loại Thủy phù hợp với Đaị Dịch Thổ là nước giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Đồng thời nó cũng thích các mệnh Kim thanh tú, Kim ôn hòa Kim trang sức, Kim Bạch Kim.

Cũng có 1 số can chi khí vượng làm cho nó không thể phát huy hết công lực, khiến nó nếu gặp phải sẽ bị vùi chôn, bị che lấp đi mãi mãi như nước biển lớn, nước trên núi, lửa dưới núi, lửa ngọn đèn…. hay khi vô tình gặp phải Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), ép buộc Đại Dịch Thổ phải dùng Thủy để hóa giải sự kìm hãm này. Nhưng dù sao thì vật cực tất phản mệnh, cách khắc này lại ngược lại với hành Quý, chỉ có thể là tai ương, khổ kiếp.

 

2029 Đại Dịch Thổ : Đất khu vực rộng lớn. Báo Hiệu Chi Kê : Gà gáy. Đoài Kim / Cấn Thổ. Theo như sách ngũ hành để lại thì Đại Dịch Thổ của những năm 20299 cũng không khác gì nhiều so với Đại Dịch Thổ năm 2028.

Quẻ Khôn trong ngũ hành phong thủy và trong bát quái mang ý nghĩa là Thổ ( đất ), cũng chính là Thân ( Hầu, Khỉ ), còn quẻ Đoài trong bát quái là ao, là đầm, cũng chính là Dậu ( Kê, Gà ). Mộc Kỉ là 1 trong những hành thuộc Thổ, nhưng nó không nằm sâu bên trong mặt đất, sâu bên trong những đầm lầy, ao hồ, mà nó nằm trên vùng ao hồ, nằm trên bề mặt như những hạt cát theo chân không khí mà bay quanh ao hồ cho nên gọi đây là Đất Dịch Chuyển.

Khi tất cả nguyên khí dần tụ hội và làm cho Đại Dịch Thổ lớn mạnh lên, nó sẽ tích cực tụ họp nguyên khí từ vạn vật, từ sự sinh trường và phát triển của vạn vật để về với đất, vê với nơi mà nó phải thuộc về.

Chính vì bản chất đó, Đại Dịch Thổ mang khuynh hướng cao của sự trở về, của sự trở về với bản tính của vạn vật.

Đại Dịch Thổ sẽ rất thích Thủy, đặc biệt là Thủy có tính chất êm dịu, ôn hòa, thanh mảnh, không mạnh bạo  và dồn dập như  Đại Hải Thủy, các loại Thủy phù hợp với Đaị Dịch Thổ là nước giếng, nước dưới khe, nước sông dài. Đồng thời nó cũng thích các mệnh Kim thanh tú, Kim ôn hòa Kim trang sức, Kim Bạch Kim.

Cũng có 1 số can chi khí vượng làm cho nó không thể phát huy hết công lực, khiến nó nếu gặp phải sẽ bị vùi chôn, bị che lấp đi mãi mãi như nước biển lớn, nước trên núi, lửa dưới núi, lửa ngọn đèn…. hay khi vô tình gặp phải Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ), ép buộc Đại Dịch Thổ phải dùng Thủy để hóa giải sự kìm hãm này. Nhưng dù sao thì vật cực tất phản mệnh, cách khắc này lại ngược lại với hành Quý, chỉ có thể là tai ương, khổ kiếp.

 

 

2030 Thoa Xuyến Kim : Vàng trang sức. Tự Quan Chi Cẩu : Chó nhà chùa. Càn Kim / Ly Hỏa. Ngũ hành phong thủy có ghi lại rằng, theo ngũ hành, mệnh Kim sẽ suy yếu tại Tuất, bệnh tại Hợi. Kim này đã vừa bệnh lại còn vừa yếu, cho nên không thể làm bất cứ thứ gì, dễ đổ vỡ và khó có thể thành công, cho nên Kim này chỉ phù hợp cho công việc hỗ trợ.

Chính vì điều đó, Thoa Xuyến Kim chỉ đơn giản được dùng để làm những món đồ trang sức, hỗ trợ nâng cao vẻ đẹp của người sở hữu, nâng cao phẩm chất của thứ sẽ đồng hành cùng với nó.

Có nhiều người hỏi rằng, nếu suốt đời chỉ có thể làm công việc hỗ trợ, phụ tá như thế thì có thể đạt phú quý được không ? Liệu Thoa Xuyến Kim và vàng bạc có thể mang mệnh phú quý không ?

Câu trả lời là, có.

Không nhất định mệnh hỗ trợ mãi mãi sẽ vẫn là hỗ trợ, đến 1 lúc nào đó, khi mà năng lực hỗ trợ tích trữ của bạn đạt mức đủ cao, mệnh hỗ trợ của bạn dù vẫn là hỗ trợ nhưng… sự chú ý, thu hút của bạn được nhiều người quan tâm hơn, nhiều người sẽ trả giá cao để có thể có được bạn làm phụ tá, làm người giúp đỡ cho họ, đó cũng được coi là mệnh quý.

1 điều khác nữa là, cái quý nhất đối với vạn vật đó chính là bản tính tự nhiên của nó. Bạn không thể nào bắt 1 con cá leo cây và bắt 1 con khỉ phải bơi dưới nước hàng ngày cả, nó vẫn sẽ là nó, chủ yếu là đạo hạnh, công đức tích lũy của nó tới đâu mà thôi, hoặc bản tính nó thích điều gì hay thôi.

Thoa Xuyến Kim sợ nhất là gặp Hỏa và Đại Hải Thủy, thích nhất là được gặp nước giếng, nước khe núi, nước trong suối, nước sông dài, vì sự kết hợp này cực kì tốt, mang lại nhiều điều lành, nhiều điều may mắn, hạnh phúc, công danh sự nghiệp cũng vang dội.

Ngoài ra, Thoa Xuyến Kim còn thích mệnh Thổ, thích cát trong đất bởi quy luật ngũ hành tương sinh có chỉ ra rằng, Thổ là nguyên nhân sinh ra Kim. Cho nên khi Thoa Xuyến Kim gặp được Thổ thì cũng như là con gặp được mẹ vậy.

 

2031 Thoa Xuyến Kim : Vàng trang sức. Khuyên Dưỡng Chi Trư : Lợn nui nhốt. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Những chú lợn ở năm 2031 cũng giống như những chú chó ở năm 2030.

Ngũ hành phong thủy có ghi lại rằng, theo ngũ hành, mệnh Kim sẽ suy yếu tại Tuất, bệnh tại Hợi. Kim này đã vừa bệnh lại còn vừa yếu, cho nên không thể làm bất cứ thứ gì, dễ đổ vỡ và khó có thể thành công, cho nên Kim này chỉ phù hợp cho công việc hỗ trợ.

Chính vì điều đó, Thoa Xuyến Kim chỉ đơn giản được dùng để làm những món đồ trang sức, hỗ trợ nâng cao vẻ đẹp của người sở hữu, nâng cao phẩm chất của thứ sẽ đồng hành cùng với nó.

Có nhiều người hỏi rằng, nếu suốt đời chỉ có thể làm công việc hỗ trợ, phụ tá như thế thì có thể đạt phú quý được không ? Liệu Thoa Xuyến Kim và vàng bạc có thể mang mệnh phú quý không ?

Câu trả lời là, có.

Không nhất định mệnh hỗ trợ mãi mãi sẽ vẫn là hỗ trợ, đến 1 lúc nào đó, khi mà năng lực hỗ trợ tích trữ của bạn đạt mức đủ cao, mệnh hỗ trợ của bạn dù vẫn là hỗ trợ nhưng… sự chú ý, thu hút của bạn được nhiều người quan tâm hơn, nhiều người sẽ trả giá cao để có thể có được bạn làm phụ tá, làm người giúp đỡ cho họ, đó cũng được coi là mệnh quý.

1 điều khác nữa là, cái quý nhất đối với vạn vật đó chính là bản tính tự nhiên của nó. Bạn không thể nào bắt 1 con cá leo cây và bắt 1 con khỉ phải bơi dưới nước hàng ngày cả, nó vẫn sẽ là nó, chủ yếu là đạo hạnh, công đức tích lũy của nó tới đâu mà thôi, hoặc bản tính nó thích điều gì hay thôi.

Thoa Xuyến Kim sợ nhất là gặp Hỏa và Đại Hải Thủy, thích nhất là được gặp nước giếng, nước khe núi, nước trong suối, nước sông dài, vì sự kết hợp này cực kì tốt, mang lại nhiều điều lành, nhiều điều may mắn, hạnh phúc, công danh sự nghiệp cũng vang dội.

Ngoài ra, Thoa Xuyến Kim còn thích mệnh Thổ, thích cát trong đất bởi quy luật ngũ hành tương sinh có chỉ ra rằng, Thổ là nguyên nhân sinh ra Kim. Cho nên khi Thoa Xuyến Kim gặp được Thổ thì cũng như là con gặp được mẹ vậy.

 

2032 Tang Đố Mộc : gỗ cây dâu. Sơn Thượng Chi Thủ : Chuột trên  núi. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Theo đúng với ngũ hành thì Tý thuộc vào mệnh Thủy, còn Sửu thuộc vào mệnh Thổ, mà Thổ lại sinh Kim theo quy luật tương sinh.

Thủy sẽ làm cho Thổ phát triển tốt, phì nhiêu, màu mỡ, từ đó giúp cho Mộc được sinh sôi, nảy nở, được phát triển tốt hơn trong 1 môi trường giàu dinh dưỡng nhưng Kim thì ngược lại hoàn toàn, sau cả 1 quá trình hình thành và phát triển của Mộc, Kim vẫn có thể lập tức chặt gãy nó, phá hủy Mộc.

Mà đối với cây dâu ( Tang Đố Mộc ) thì người ta thường dùng nó khi nó còn non yếu, lúc mới sinh trưởng người ta đã chặt nó đi để làm dụng cụ phục vụ cho con người, cho nên những sản phẩm được làm từ cây dâu đó được gọi là Tang Đố Mộc ( gỗ cây dâu ).

Trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây dâu, nếu gặp được cát trong đất, đất ven đường, đất chuyển dịch thì là tốt nhất, nó sẽ phát triển với tốc độ cao hơn, phất lên như diều gặp gió. Gặp thêm nước sông dài, nước dưới khe, nước trong suối sẽ càng giúp nó phát triển nhanh thêm nữa.

Còn nếu gặp được mệnh cây Tùng Bách như Canh Dần , Tân Mão thì gọi là mạnh yếu giúp nhau,  còn 1 cảnh tượng tốt đẹp hơn, đó là khi gỗ cây dâu này gặp được gỗ cây liễu, người ta thường gọi là “ Dâu liễu thành rừng “, là hình ảnh tượng trưng cho sự an cư lạc nghiệp, cuộc sống no ấm, đầy đủ, yên bình.

Hay gặp được gỗ rừng lớn, nó giống như là 1 nhánh sông gặp được dòng sông, tuôn theo dòng sông mà chảy mãi chảy mãi, không lo lắng, không suy nghĩ nhìu rằng mình sẽ về đâu, đây cũng là 1 điều rất tốt.

Chỉ có khi nào Tang Đố Mộc gặp phải Gỗ Đồng Bằng, Gỗ Cây Lựu thì sẽ bị tàn phá, chèn ép đến mức héo úa, suy tàn, đây là điềm xấu, người mệnh này nên tránh.

 

2033 Tang Đố Mộc : Gỗ cây dâu. Lan Ngoại Chi Ngưu : Trâu ngoài chuồng. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Những người sinh vào năm 2033 có số mệnh giống với những người năm 2032, cũng sẽ là Tang Đố Mộc, và cũng sẽ là những mệnh nên tránh hay nên hợp.

Theo đúng với ngũ hành thì Tý thuộc vào mệnh Thủy, còn Sửu thuộc vào mệnh Thổ, mà Thổ lại sinh Kim theo quy luật tương sinh.

Thủy sẽ làm cho Thổ phát triển tốt, phì nhiêu, màu mỡ, từ đó giúp cho Mộc được sinh sôi, nảy nở, được phát triển tốt hơn trong 1 môi trường giàu dinh dưỡng nhưng Kim thì ngược lại hoàn toàn, sau cả 1 quá trình hình thành và phát triển của Mộc, Kim vẫn có thể lập tức chặt gãy nó, phá hủy Mộc.

Mà đối với cây dâu ( Tang Đố Mộc ) thì người ta thường dùng nó khi nó còn non yếu, lúc mới sinh trưởng người ta đã chặt nó đi để làm dụng cụ phục vụ cho con người, cho nên những sản phẩm được làm từ cây dâu đó được gọi là Tang Đố Mộc ( gỗ cây dâu ).

Trong quá trình sinh trưởng và phát triển của cây dâu, nếu gặp được cát trong đất, đất ven đường, đất chuyển dịch thì là tốt nhất, nó sẽ phát triển với tốc độ cao hơn, phất lên như diều gặp gió. Gặp thêm nước sông dài, nước dưới khe, nước trong suối sẽ càng giúp nó phát triển nhanh thêm nữa.

Còn nếu gặp được mệnh cây Tùng Bách như Canh Dần , Tân Mão thì gọi là mạnh yếu giúp nhau,  còn 1 cảnh tượng tốt đẹp hơn, đó là khi gỗ cây dâu này gặp được gỗ cây liễu, người ta thường gọi là “ Dâu liễu thành rừng “, là hình ảnh tượng trưng cho sự an cư lạc nghiệp, cuộc sống no ấm, đầy đủ, yên bình.

Hay gặp được gỗ rừng lớn, nó giống như là 1 nhánh sông gặp được dòng sông, tuôn theo dòng sông mà chảy mãi chảy mãi, không lo lắng, không suy nghĩ nhìu rằng mình sẽ về đâu, đây cũng là 1 điều rất tốt.

Chỉ có khi nào Tang Đố Mộc gặp phải Gỗ Đồng Bằng, Gỗ Cây Lựu thì sẽ bị tàn phá, chèn ép đến mức héo úa, suy tàn, đây là điềm xấu, người mệnh này nên tránh.

 

2034 Đại Khê Thủy : nước dưới khe lớn. Lập Định Chi Hổ : Hổ tự lập. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Theo các ghi chú về phong thủy ngũ hành mà trong sách để lại, Dần Mão là mệnh thuộc về phương Đông, mà phương Đông lại là chính vị của Dần, cũng là nơi gió đông thịnh nhất trong 4 phương.

Nếu nước chảy theo hướng Đông, chảy ra sông, ra suối thì cứ tha hồ, vui vẻ, vô tư, tung tăn  mà di chuyển, những dòng chảy nhỏ tha hồ hội tụ với nhau tạo thành những dòng chảy lớn nên gọi nó là nưới dưới khe lớn, chưa kể rằng, Mão lại là chính hướng của gió đông.

Các dòng chảy lớn này quan trọng là phải luôn luôn hướng về biển, hướng về 1 mục tiêu lớn hơn, và nếu muốn thuận tiện hơn, trên đường đi của Đại Khê Thủy không nên có sự can thiệp, sự cản trở của bất kì sự vật nào khác, chảy liên tục, không ngớt, không đứt quãng.

Để có thể trôi chảy được như thế, Đại Khê Thủy nên gặp được Kim, mệnh sinh ra Thủy thì tốt nhất, chúng sẽ giúp đỡ nhau hoàn thiện chuyến đi của mình 1 cách hoàn mỹ nhất. còn nếu gặp phải các loại Thổ khác và sinh ra Mộc là điều không hay. Chỉ có Nhâm Tý, Quý Sửu là núi, mà nó lại gặp được thêm nước thì gọi nó là “ nước chảy quanh núi “, theo như trong sách ngũ hành đã ghi chép lại thì đây chính là mệnh đại quý, hiếm có trên đời.

 

2035 Đại Khê Thủy : Nước dưới khe lớn. Đắc Đạo Chi Mão : Mèo đắc đạo. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Nói đến Đại Khê Thủy của năm 2035, chúng ta nên xem xét lại Đại Khê Thủy của năm 2034 để biết rõ hơn.

Theo các ghi chú về phong thủy ngũ hành mà trong sách để lại, Dần Mão là mệnh thuộc về phương Đông, mà phương Đông lại là chính vị của Dần, cũng là nơi gió đông thịnh nhất trong 4 phương.

Nếu nước chảy theo hướng Đông, chảy ra sông, ra suối thì cứ tha hồ, vui vẻ, vô tư, tung tăn  mà di chuyển, những dòng chảy nhỏ tha hồ hội tụ với nhau tạo thành những dòng chảy lớn nên gọi nó là nưới dưới khe lớn, chưa kể rằng, Mão lại là chính hướng của gió đông.

Các dòng chảy lớn này quan trọng là phải luôn luôn hướng về biển, hướng về 1 mục tiêu lớn hơn, và nếu muốn thuận tiện hơn, trên đường đi của Đại Khê Thủy không nên có sự can thiệp, sự cản trở của bất kì sự vật nào khác, chảy liên tục, không ngớt, không đứt quãng.

Để có thể trôi chảy được như thế, Đại Khê Thủy nên gặp được Kim, mệnh sinh ra Thủy thì tốt nhất, chúng sẽ giúp đỡ nhau hoàn thiện chuyến đi của mình 1 cách hoàn mỹ nhất. còn nếu gặp phải các loại Thổ khác và sinh ra Mộc là điều không hay. Chỉ có Nhâm Tý, Quý Sửu là núi, mà nó lại gặp được thêm nước thì gọi nó là “ nước chảy quanh núi “, theo như trong sách ngũ hành đã ghi chép lại thì đây chính là mệnh đại quý, hiếm có trên đời.

 

2036 Sa Trung Thổ : Đất lẫn trong cát. Thiên Thượng Chi Long : rồng về trời. Ly Hỏa / Càn Kim. Sách phong thủy ngũ hành đã có truyền lại cho đời sau rằng, Thìn là chính vị của Thổ trong ngũ hành, Tỵ là nơi tuyệt thịnh của Thổ trong ngũ hành. Còn Hỏa của Bính Đinh trong ngũ hành cũng chính là mệnh cần Thìn để trưởng thành, còn Tỵ sẽ giúp được nó hiển linh.

Thổ này dù ở thế mộ tuyệt nhưng nếu gặp phải Hỏa vượng thì mọi thứ có thể sẽ đổ vỡ, sẽ phải làm lại tất cả từ đầu.

Điều này cũng dể hiểu thôi, hãy tưởng tượng rằng những đốm tro tàn sau khi bay lên trời thì sẽ đến lúc phải rơi xuống, và khi rơi xuống, nó hòa vào cát, hòa vào Thổ để trở thành 1 phần của Thổ, cho nên mới có tên gọi là Sa Trung Thổ ( đất lẫn trong cát ) của nó.

Sa Trung Thổ nếu gặp được Kim là quý, nó như là đất có vàng vậy, sẽ nhanh chóng được quan tâm và lên giá, nhưng cần có nước hỗ trợ để vàng trong đất được hiện ra rõ hơn, dùng nước để lọc phần cát bẩn, Kim hiện ra rõ rang hơn. Cho nên đối với mệnh này, gặp được Kim với Thủy là quý.

Loại đất này đặc biệt thích hợp với 2 loại Mộc, đó là Dương Liễu Mộc và Tang Đỗ Mộc, chỉ có 2 loại cây này mới có thể sinh sống  và phát triển tốt trong môi trường đất trong cát, còn lại , đối với các mệnh Mộc khác khi gặp phải Sa Trung Thổ đều không tốt.

Sa Trung Thổ cũng rất thích gặp lửa trên trời,  có ánh thái dương bãi cát chạy dài, khiến cho cảnh đẹp hơn, lung linh hơn, huyền diệu hơn, vì thế cho nên khi gặp được mệnh này cũng là quý.

 

2037 Sa Trung Thổ : Đất trong cát. Đầm Nội Chi Xà : Rắn trong đầm. Cấn Thổ / Đoài Kim.  

Sách phong thủy ngũ hành đã có truyền lại cho đời sau rằng, Thìn là chính vị của Thổ trong ngũ hành, Tỵ là nơi tuyệt thịnh của Thổ trong ngũ hành. Còn Hỏa của Bính Đinh trong ngũ hành cũng chính là mệnh cần Thìn để trưởng thành, còn Tỵ sẽ giúp được nó hiển linh.

Thổ này dù ở thế mộ tuyệt nhưng nếu gặp phải Hỏa vượng thì mọi thứ có thể sẽ đổ vỡ, sẽ phải làm lại tất cả từ đầu.

Điều này cũng dể hiểu thôi, hãy tưởng tượng rằng những đốm tro tàn sau khi bay lên trời thì sẽ đến lúc phải rơi xuống, và khi rơi xuống, nó hòa vào cát, hòa vào Thổ để trở thành 1 phần của Thổ, cho nên mới có tên gọi là Sa Trung Thổ ( đất lẫn trong cát ) của nó.

Sa Trung Thổ nếu gặp được Kim là quý, nó như là đất có vàng vậy, sẽ nhanh chóng được quan tâm và lên giá, nhưng cần có nước hỗ trợ để vàng trong đất được hiện ra rõ hơn, dùng nước để lọc phần cát bẩn, Kim hiện ra rõ rang hơn. Cho nên đối với mệnh này, gặp được Kim với Thủy là quý.

Loại đất này đặc biệt thích hợp với 2 loại Mộc, đó là Dương Liễu Mộc và Tang Đỗ Mộc, chỉ có 2 loại cây này mới có thể sinh sống  và phát triển tốt trong môi trường đất trong cát, còn lại , đối với các mệnh Mộc khác khi gặp phải Sa Trung Thổ đều không tốt.

Sa Trung Thổ cũng rất thích gặp lửa trên trời,  có ánh thái dương bãi cát chạy dài, khiến cho cảnh đẹp hơn, lung linh hơn, huyền diệu hơn, vì thế cho nên khi gặp được mệnh này cũng là quý.

 

2038 Thiên Thượng Hỏa : Lửa trên trời. Cứu Nội Chi Mã : Ngựa trong chuồng. Đoài Kim / Cấn Thổ. Sách phong thũy ngũ hành đã truyền lại cho con cháu đời sau rằng, Mộc sẽ khiến cho Hỏa càng thêm thịnh vượng, càng thêm mạnh.

Mệnh Ngọ sẽ là giai đoạn cực thịnh của Hỏa trong ngũ hành,  còn Mùi, Kỷ là nơi Mộc được sinh ra.

Kết hợp 2 điều trên, ta có thể suy ra rằng, Mùi và Kỷ sẽ giúp cho Ngọ phát triển mạnh mẽ hơn.

Hỏa khi mạnh mẽ hơn, sẽ bốc lên cao hơn, hơi nóng của nó bay cao hơn, xa hơn trên bầu trời, mà khi lên đến bầu trời rồi thì không gọi nó là nhiệt của lửa nữa, mà gọi nó là ánh nắng của mặt trời, hay còn gọi là lửa mặt trời, vì là ánh nắng của mặt trời cho nên Thiên Thượng Hỏa sẽ thích gặp được Mộc, Thủy, Kim để biến hóa, điều hòa và hỗ trợ nhau cho sự phát triển của Mộc.

Ánh sáng từ Thiên Thượng Hỏa giúp cho quá trình quang hợp của cây tốt hơn, dòng nước từ Thủy sẽ giúp cây có nhiều dinh dưỡng hơn, phát triển mạnh mẽ hơn, cứng cáp hơn.

Đối với mệnh Hỏa thì Thiên Thượng Hỏa chỉ thích duy nhất Phúc Đăng Hỏa ( lửa ngọn đèn ) bởi vì nó dịu êm, hiền lành, còn các loại hỏa khác như Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ),… đều sẽ không hợp, tương khắc.

Nó cũng thích gặp được Thổ, nếu có sự kết hợp thêm của Kim, Mộc thì sẽ là mệnh cực quý, cực giàu sang, cuộc sống cực sung túc, may mắn, bình an.

Thiên Thượng Hỏa muốn hòa hoãn với Thủy, kết hợp với Thủy thì phải có nhiều mệnh, hệ khác kèm theo, còn nếu Thiên Thượng Hỏa chỉ kết hợp duy nhất với Thủy sẽ không thành bất cứ điều gì, vì Thủy – Hỏa tương khắc.

 

2039 Thiên Thượng Hỏa : lửa trên trời. Thảo Dã Chi Dương : Dê đồng cỏ. Càn Kim / Ly Hỏa. Sách phong thũy ngũ hành đã truyền lại cho con cháu đời sau rằng, Mộc sẽ khiến cho Hỏa càng thêm thịnh vượng, càng thêm mạnh.

Mệnh Ngọ sẽ là giai đoạn cực thịnh của Hỏa trong ngũ hành,  còn Mùi, Kỷ là nơi Mộc được sinh ra.

Kết hợp 2 điều trên, ta có thể suy ra rằng, Mùi và Kỷ sẽ giúp cho Ngọ phát triển mạnh mẽ hơn.

Hỏa khi mạnh mẽ hơn, sẽ bốc lên cao hơn, hơi nóng của nó bay cao hơn, xa hơn trên bầu trời, mà khi lên đến bầu trời rồi thì không gọi nó là nhiệt của lửa nữa, mà gọi nó là ánh nắng của mặt trời, hay còn gọi là lửa mặt trời, vì là ánh nắng của mặt trời cho nên Thiên Thượng Hỏa sẽ thích gặp được Mộc, Thủy, Kim để biến hóa, điều hòa và hỗ trợ nhau cho sự phát triển của Mộc.

Ánh sáng từ Thiên Thượng Hỏa giúp cho quá trình quang hợp của cây tốt hơn, dòng nước từ Thủy sẽ giúp cây có nhiều dinh dưỡng hơn, phát triển mạnh mẽ hơn, cứng cáp hơn.

Đối với mệnh Hỏa thì Thiên Thượng Hỏa chỉ thích duy nhất Phúc Đăng Hỏa ( lửa ngọn đèn ) bởi vì nó dịu êm, hiền lành, còn các loại hỏa khác như Tích Lịch Hỏa ( lửa sấm sét ),… đều sẽ không hợp, tương khắc.

Nó cũng thích gặp được Thổ, nếu có sự kết hợp thêm của Kim, Mộc thì sẽ là mệnh cực quý, cực giàu sang, cuộc sống cực sung túc, may mắn, bình an.

Thiên Thượng Hỏa muốn hòa hoãn với Thủy, kết hợp với Thủy thì phải có nhiều mệnh, hệ khác kèm theo, còn nếu Thiên Thượng Hỏa chỉ kết hợp duy nhất với Thủy sẽ không thành bất cứ điều gì, vì Thủy – Hỏa tương khắc.

 

2040 Thạch Lựu Mộc : Cây thạch lưu. Thực Quả Chi Hầu : Khỉ ăn hoa quả. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Ngũ hành phong thủy cũng đã có những ghi nhận vào sách vở rằng, tháng 7 là đại biểu của Thân, tháng 8 là đại biểu của Dậu.

Trong 2 tháng này, cây thạch lựu ( Thạch Lựu Mộc ) phát triển mạnh, tươi tốt, đơm hoa kết trái,, và cũng chỉ duy nhất loại cây này có khả năng phát triển vào mùa này, còn lại, các loại Mộc khác chỉ có thể tàn lụi, héo úa và suy vong.

Canh Thân, Tân Dậu cũng có thể gọi là mệnh của Thạch Lựu Mộc.

Thứ cây này, nếu vào mùa thu thì đơm hoa kết trái, phát triển tốt, cho nên tính Mộc trong thời gian này là Mộc cứng rắn, phối hợp với Thủy Mộc Thổ Kim qua lại cũng đều được gọi là tốt, là điềm lành.

Duy chỉ có khi gặp phải nước biển lớn, thế Thủy của nó quá mạnh bạo, chảy ồ ạt, sức công phá lớn thì đường nào cũng bần cùng và sinh ra bệnh tật….

Lưu ý, mệnh này nếu gặp được lửa trên trời, lửa sấm sét, lửa trong lò cũng là điềm báo tốt, nhưng những ngọn lửa này cũng sẽ mang lại điềm xấu, nó có cả 2 mặt của nó.

Thạch Lựu Mộc cũng có bao hàm các mệnh phú quý như sinh vào ngày trụ, giờ trụ, là 1 trong những ngày của tháng 5, nếu còn kèm theo 1 mệnh Hỏa thì gọi chung mệnh này là “ thạch lựu phun hỏa “, còn khi Thạch Lựu Mộc gặp được cây dương liễu thì gọi là “ Hoa hồng liễu xanh “.

 

2041 Thạch Lựu Mộc : Cây thạch lựu. Long Tàng Chi Kê : Gà trong lồng. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Ngũ hành phong thủy cũng đã có những ghi nhận vào sách vở rằng, tháng 7 là đại biểu của Thân, tháng 8 là đại biểu của Dậu.

Trong 2 tháng này, cây thạch lựu ( Thạch Lựu Mộc ) phát triển mạnh, tươi tốt, đơm hoa kết trái,, và cũng chỉ duy nhất loại cây này có khả năng phát triển vào mùa này, còn lại, các loại Mộc khác chỉ có thể tàn lụi, héo úa và suy vong.

Canh Thân, Tân Dậu cũng có thể gọi là mệnh của Thạch Lựu Mộc.

Thứ cây này, nếu vào mùa thu thì đơm hoa kết trái, phát triển tốt, cho nên tính Mộc trong thời gian này là Mộc cứng rắn, phối hợp với Thủy Mộc Thổ Kim qua lại cũng đều được gọi là tốt, là điềm lành.

Duy chỉ có khi gặp phải nước biển lớn, thế Thủy của nó quá mạnh bạo, chảy ồ ạt, sức công phá lớn thì đường nào cũng bần cùng và sinh ra bệnh tật….

Lưu ý, mệnh này nếu gặp được lửa trên trời, lửa sấm sét, lửa trong lò cũng là điềm báo tốt, nhưng những ngọn lửa này cũng sẽ mang lại điềm xấu, nó có cả 2 mặt của nó.

Thạch Lựu Mộc cũng có bao hàm các mệnh phú quý như sinh vào ngày trụ, giờ trụ, là 1 trong những ngày của tháng 5, nếu còn kèm theo 1 mệnh Hỏa thì gọi chung mệnh này là “ thạch lựu phun hỏa “, còn khi Thạch Lựu Mộc gặp được cây dương liễu thì gọi là “ Hoa hồng liễu xanh “.

 

2042 Đại Hải Thủy : Nước đại dương. Cố Gia Chi Khuyển : Chó về nhà. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Trong ngũ hành có ghi chép, Thủy sẽ đạt được giai đoạn thành thục tại Tuất và Hợi. Do đó, Thủy trong mệnh này có thực lực vô cùng hùng hậu.

Đồng thời, mệnh Thủy trong ngũ hành cũng thuộc vào mệnh Hợi, là biểu tượng cho sông đổ ra biển, cho nên mới gọi nó là nước biển lớn ( Đại Hải Thủy ).

Biển cả vốn mênh mộc, thế lực vô cùng vô tận, khó có thể có bất cứ thứ gì sánh bằng.

Biển còn là nơi tụ họp của nhiều nguồn nước khác nhau, nhiều nhánh sông, nhiều con sông nhỏ đổ vào biển cả để cùng chung 1 dòng chảy, cùng chung 1 mái nhà, kể cả là nước trên trời, nước sông dài, nước suối lớn, … đều sẽ đổ về nước biển lớn và gặp được Đại Hải Thủy là điều tốt.

Trong mệnh này có 1 mệnh phú quý 1 đời, khó mệnh nào có thể sánh lại được chính là Nhâm Thìn trong nước sông dài, mệnh này phối hợp với nước biển lớn gọi “ Long Phi Cố Hải “ ( rồng quay về biển ). Còn với Hỏa thì mệnh này thích Hỏa trên trơi vì mặt trời mọc ở hướng Đông, mà hướng Đông là hướng của biển, cho nên Hỏa trên trời sẽ giúp cho mặt biển thêm lung linh. Trong Kim thì nó thích Kim đáy biển, Mộc thì nó thích Mộc cây dâu, Mộc cây dương liễu, đối với Thổ thì nó thích Thổ dịch chuyển và Thổ bên đường.

Ngoài ra, tất cả đều khó mà có thể dung hòa được với Đại Hải Thủy, nếu nước biển lớn gặp nước biển lớn sẽ tạo nên trận đại hồng thủy nhấn chìm và phá hủy tất cả, còn nếu Đại Hải Thủy gặp phải Tích Lịch Hỏa sẽ tạo ra giông tố hủy diệt tất cả, tạo thế hung hãn, sức mạnh khủng khiếp, phong ba bão táp  ập đến phá tan, làm vạn vật tiêu điều. mệnh này sẽ không thể nào phát triển được, không thể nào giàu sang mà bần tiện muôn đời, lao động khổ sa, khó khăn nhưng vẫn không có thu hoạch nhiều.

Cho nên người mệnh này cần tìm cho mình đó là  mệnh có thế núi hùng hậu để che chắn biển lớn, giúp tránh các tai kiếp về sau.

 

2043 Đại Hải Thủy : Nước đại dương. Lâm Hạ Chi Trư : Lợn trong rừng. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Những mệnh Đại Hải Thủy của người năm 1983 nên sánh cùng với các Đại Hải Thủy ở năm 1982.

Trong ngũ hành có ghi chép, Thủy sẽ đạt được giai đoạn thành thục tại Tuất và Hợi. Do đó, Thủy trong mệnh này có thực lực vô cùng hùng hậu.

Đồng thời, mệnh Thủy trong ngũ hành cũng thuộc vào mệnh Hợi, là biểu tượng cho sông đổ ra biển, cho nên mới gọi nó là nước biển lớn ( Đại Hải Thủy ).

Biển cả vốn mênh mộc, thế lực vô cùng vô tận, khó có thể có bất cứ thứ gì sánh bằng.

Biển còn là nơi tụ họp của nhiều nguồn nước khác nhau, nhiều nhánh sông, nhiều con sông nhỏ đổ vào biển cả để cùng chung 1 dòng chảy, cùng chung 1 mái nhà, kể cả là nước trên trời, nước sông dài, nước suối lớn, … đều sẽ đổ về nước biển lớn và gặp được Đại Hải Thủy là điều tốt.

Trong mệnh này có 1 mệnh phú quý 1 đời, khó mệnh nào có thể sánh lại được chính là Nhâm Thìn trong nước sông dài, mệnh này phối hợp với nước biển lớn gọi “ Long Phi Cố Hải “ ( rồng quay về biển ). Còn với Hỏa thì mệnh này thích Hỏa trên trơi vì mặt trời mọc ở hướng Đông, mà hướng Đông là hướng của biển, cho nên Hỏa trên trời sẽ giúp cho mặt biển thêm lung linh. Trong Kim thì nó thích Kim đáy biển, Mộc thì nó thích Mộc cây dâu, Mộc cây dương liễu, đối với Thổ thì nó thích Thổ dịch chuyển và Thổ bên đường.

Ngoài ra, tất cả đều khó mà có thể dung hòa được với Đại Hải Thủy, nếu nước biển lớn gặp nước biển lớn sẽ tạo nên trận đại hồng thủy nhấn chìm và phá hủy tất cả, còn nếu Đại Hải Thủy gặp phải Tích Lịch Hỏa sẽ tạo ra giông tố hủy diệt tất cả, tạo thế hung hãn, sức mạnh khủng khiếp, phong ba bão táp  ập đến phá tan, làm vạn vật tiêu điều. mệnh này sẽ không thể nào phát triển được, không thể nào giàu sang mà bần tiện muôn đời, lao động khổ sa, khó khăn nhưng vẫn không có thu hoạch nhiều.

Cho nên người mệnh này cần tìm cho mình đó là  mệnh có thế núi hùng hậu để che chắn biển lớn, giúp tránh các tai kiếp về sau.

 

2044 Hải Trung Kim : Vàng dưới đáy biển. Ốc Thượng Chi Thử : chuột ở nóc nhà. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Trong “ Bác Vật Vựng Biên “ có ghi chép lại rằng,  đối với Giáp Tí Ất Sửu thì Tý thuộc hành Thủy, là nơi mà các hồ ao thủy thịnh vượng, phát triển.

Ngược lại với Tý chính là Kim, Kim không những không thịnh ở Tý mà còn là nơi Kim suy yếu đi và cũng là nơi Kim tử, mộ ở Sửu chỗ Thủy thịnh vượng, từ đó Kim đã bị cho vào thế “ tử mộ “ đằng nào cũng khó thoát khỏi tai kiếp cho nên gọi nó bằng cái tên Hải Trung Kim, được ví như là vàng trong lòng biển cả.

Biển cả rộng lớn mênh mông, muốn tìm được vàng trong lòng biển khó như đi lên trời vậy, Hải Trung Kim khí thế bị bao tang, che lấp, có danh nhưng vô nghĩa, không thể làm được bất cứ điều gì, có thực nhưng như vô hình, không thể nào tìm thấy một cách dễ dàng được, cứ lặng yên trong lòng biển như thai nhi khi còn đang ở trong bụng mẹ, dựa vào mẹ để sinh tồn và phát triển.

 

2045 Hải Trung Kim : Vàng dưới biển. Hải Nội Chi Ngưu : Trâu trong biển. Ly Hỏa / Càn Kim. Trong “ Bác Vật Vựng Biên “ có ghi chép lại rằng,  đối với Giáp Tí Ất Sửu thì Tý thuộc hành Thủy, là nơi mà các hồ ao thủy thịnh vượng, phát triển.

Ngược lại với Tý chính là Kim, Kim không những không thịnh ở Tý mà còn là nơi Kim suy yếu đi và cũng là nơi Kim tử, mộ ở Sửu chỗ Thủy thịnh vượng, từ đó Kim đã bị cho vào thế “ tử mộ “ đằng nào cũng khó thoát khỏi tai kiếp cho nên gọi nó bằng cái tên Hải Trung Kim, được ví như là vàng trong lòng biển cả.

Biển cả rộng lớn mênh mông, muốn tìm được vàng trong lòng biển khó như đi lên trời vậy, Hải Trung Kim khí thế bị bao tang, che lấp, có danh nhưng vô nghĩa, không thể làm được bất cứ điều gì, có thực nhưng như vô hình, không thể nào tìm thấy một cách dễ dàng được, cứ lặng yên trong lòng biển như thai nhi khi còn đang ở trong bụng mẹ, dựa vào mẹ để sinh tồn và phát triển.

 

2046 Lư Trung Hỏa : Lửa trong lò. Sơn Lâm Chi Hổ : Hổ trong rừng. Cấn Thổ / Đoài Kim. Trong sách ngũ hành phong thủy có ghi chép lại, Dần ở địa chi là ngôi thứ 3, Mão ở địa chi là ngôi thứ 4, còn Bính, Đinh trong ngũ hành là chính vị của mệnh Hỏa.

Tại đây, Hỏa đã đạt được vị thế cao ngất, khí thế ngùn ngùn, cảnh giới cũng thuộc hàng bậc cao, mà lại còn có thêm sự trợ giúp đến từ hành Mộc, tức Dần Mão thì như  “ hổ thêm cánh “, càng thêm khí thế và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. điều này được hiểu theo quy luật tương sinh, tương trợ trong ngũ hành.

Khi này, trời đất vừa mới được hình thành, như bầu trời lúc sáng, ánh sáng của mặt trời như là tro trong lò lửa vừa mới được sinh ra, dần dần về sau đó, có sự can thiệp nhiều hơn đến từ Mộc mà lửa dần dần lớn mạnh thêm, khí thế cao hơn, khủng khiếp hơn. Đây được gọi là Lư Trung Hỏa ( lửa trong lò ), với đất được ví như lò lửa, còn âm dương thì cũng như than củi.

 

2047 Lư Trung Hỏa : Lửa trong lò. Vọng Nguyệt Chi Mão : Mèo ngắm trăng. Đoài Kim / Cấn Thổ. Trong sách ngũ hành phong thủy có ghi chép lại, Dần ở địa chi là ngôi thứ 3, Mão ở địa chi là ngôi thứ 4, còn Bính, Đinh trong ngũ hành là chính vị của mệnh Hỏa.

Tại đây, Hỏa đã đạt được vị thế cao ngất, khí thế ngùn ngùn, cảnh giới cũng thuộc hàng bậc cao, mà lại còn có thêm sự trợ giúp đến từ hành Mộc, tức Dần Mão thì như  “ hổ thêm cánh “, càng thêm khí thế và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. điều này được hiểu theo quy luật tương sinh, tương trợ trong ngũ hành.

Khi này, trời đất vừa mới được hình thành, như bầu trời lúc sáng, ánh sáng của mặt trời như là tro trong lò lửa vừa mới được sinh ra, dần dần về sau đó, có sự can thiệp nhiều hơn đến từ Mộc mà lửa dần dần lớn mạnh thêm, khí thế cao hơn, khủng khiếp hơn. Đây được gọi là Lư Trung Hỏa ( lửa trong lò ), với đất được ví như lò lửa, còn âm dương thì cũng như than củi.

 

2048 Đại Lâm Mộc : Cây trong rừng lớn. Thanh Ôn Chi Long : Rồng Ôn Hòa. Càn Kim / Ly Hỏa. Trong địa chi của ngũ hành phong thủy, Tỵ đứng ngôi thứ 6, còn Thìn thì là đại biểu cho đất đai hoang dã.

Mộc cũng chính vị ở ngôi thứ 6, có lợi, dể sinh cành lá xum xuê.

Chính những cây to xum xêu này được sinh ra ở đất đai hoang dã, rộng lớn, cho nên gọi nó là Đại Lâm Mộc.

Nếu mệnh này gặp được người mệnh Thổ, như  các thổ rộng, thổ xum xuê thì sẽ phát triển cao hơn, phát triển nhanh hơn, dinh dưỡng dồi dào, chắc chắn, mạnh mẽ, chịu đựng được các tai kiếp của nhân gian.

Người mệnh này là người có khả năng chịu đựng cao, tính kiên trì khó có mệnh nào có thể sánh lại được, những người có tính cách này chắc chắn thành công nếu biết cách tận dụng nó trong cuộc sống.

 

2049 Đại Lâm Mộc : Cây trong rừng. Phúc Khí Chi Xà : Rắn có phúc. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Trong địa chi của ngũ hành phong thủy, Tỵ đứng ngôi thứ 6, còn Thìn thì là đại biểu cho đất đai hoang dã.

Mộc cũng chính vị ở ngôi thứ 6, có lợi, dể sinh cành lá xum xuê.

Chính những cây to xum xêu này được sinh ra ở đất đai hoang dã, rộng lớn, cho nên gọi nó là Đại Lâm Mộc.

Nếu mệnh này gặp được người mệnh Thổ, như  các thổ rộng, thổ xum xuê thì sẽ phát triển cao hơn, phát triển nhanh hơn, dinh dưỡng dồi dào, chắc chắn, mạnh mẽ, chịu đựng được các tai kiếp của nhân gian.

Người mệnh này là người có khả năng chịu đựng cao, tính kiên trì khó có mệnh nào có thể sánh lại được, những người có tính cách này chắc chắn thành công nếu biết cách tận dụng nó trong cuộc sống.

 

2050 Lộ Bàng Thổ : đất giữa đường. Thất Lý Chi Mã : ngựa trong nhà Tốn Mộc / Khôn Thổ. Trong năm này, mệnh Hỏa sẻ trở nên Hỏa vượng bởi Mùi ngũ hành của năm là Thổ Sinh Mộc, khiến cho Ngọ thành Hỏa vượng.

Nhưng điều này lại ngược lại với Thổ, không những không thể vượng mà còn bị tàn, bị trở ngại.

Một cách dễ hiểu là Thổ là cung mệnh sinh Mộc ( đất giúp cây cỏ phát triển tươi tốt, xanh mờn ), nhưng Mộc lại là nguyên nhân tạo ra Hỏa ( cây cháy sẽ tạo ra lửa ), mà lửa lại sẽ là nguyên nhân gây cho đất đai kém màu mỡ, kém phì nhiêu, hay Hỏa làm cho Thổ bị suy tàn.

Chính Thổ sẽ là nguyên nhân tự hại lấy bản thân mình, vì đã tạo ra sự phát triển của cây cối nhưng lại để cây cối phát triển và cháy tạo lửa làm cho đất bị khô cằn, đó cũng là số phận của những mảnh đất ven đường hay còn gọi là “ Lộ Bàng Thổ “.

Nếu  “ Lộ Bàng Thổ “ có thể may mắn gặp được Thủy sẽ thoát được sự khô cằn mà Hỏa mang lại, thậm chí còn có thể phát triển tốt hơn về với đất, về với vạn vật, là nơi sinh trường và phát triển lí tưởng của vạn vật. Hơn thế nữa, nếu được kết hợp với mệnh Kim, sẽ là nơi lí tưởng để tạo nên những cung điện, những khi nghĩ dưỡng sang trọng, những căn nhà ấm áp, giàu tình thương, hạnh phúc, hòa thuận, tạo nên 1 nơi tá túc phồn vinh.

 

2051 Lộ Bàng Thổ : đất giữa đường. Đắc Lộc Chi Dương : dê có lộc. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Cũng tương tự như những nhân thân sinh vào năm 2050, những người sinh trùng 2051 cũng sẽ gặp phải sự tàn phá của Hỏa vì sinh ra Mộc, nhưng được phù trợ bởi Thủy và vinh quang nhờ Kim.

Trong năm này, mệnh Hỏa sẻ trở nên Hỏa vượng bởi Mùi ngũ hành của năm là Thổ Sinh Mộc, khiến cho Ngọ thành Hỏa vượng.

Nhưng điều này lại ngược lại với Thổ, không những không thể vượng mà còn bị tàn, bị trở ngại.

Một cách dễ hiểu là Thổ là cung mệnh sinh Mộc ( đất giúp cây cỏ phát triển tươi tốt, xanh mờn ), nhưng Mộc lại là nguyên nhân tạo ra Hỏa ( cây cháy sẽ tạo ra lửa ), mà lửa lại sẽ là nguyên nhân gây cho đất đai kém màu mỡ, kém phì nhiêu, hay Hỏa làm cho Thổ bị suy tàn.

Chính Thổ sẽ là nguyên nhân tự hại lấy bản thân mình, vì đã tạo ra sự phát triển của cây cối nhưng lại để cây cối phát triển và cháy tạo lửa làm cho đất bị khô cằn, đó cũng là số phận của những mảnh đất ven đường hay còn gọi là “ Lộ Bàng Thổ “.

Nếu  “ Lộ Bàng Thổ “ có thể may mắn gặp được Thủy sẽ thoát được sự khô cằn mà Hỏa mang lại, thậm chí còn có thể phát triển tốt hơn về với đất, về với vạn vật, là nơi sinh trường và phát triển lí tưởng của vạn vật. Hơn thế nữa, nếu được kết hợp với mệnh Kim, sẽ là nơi lí tưởng để tạo nên những cung điện, những khi nghĩ dưỡng sang trọng, những căn nhà ấm áp, giàu tình thương, hạnh phúc, hòa thuận, tạo nên 1 nơi tá túc phồn vinh.

 

2052 Kiếm Phong Kim : Vàng đầu mũi Kiếm. Thanh Tú Chi Hầu : Khỉ thanh tú. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Trùng hợp và có mối tương quan với mệnh Kim, Thân Dậu được xếp và hạng 1 trong những hiện thân của ngũ hành.

Trong quá trình sinh trưởng, vị trí lâm quan của Thân Dậu cũng như của mệnh Kim là Thân, còn vị trí đế vượng là ở Dậu.

Cũng như mọi người đã biết, nếu được sinh ra 1 cách hoàn hảo, sinh ra đúng bài bản và đúng quy trình, không dư cũng không thiếu thì chắc chắn sẽ phát triển bình thường, sẽ vững chãi và bền bỉ với thời gian.

Hãy tưởng tượng điều tương tự với mệnh Kim.

Nếu được tạo ra 1 cách bài bản, nguyên chất, được tôi luyện qua môi trường khắc nghiệt thì chắc chắn sẽ bền vững, siêu bền, siêu cứng, siêu dai với ngoại lực,với thời gian, với mọi tác động từ phía bên ngoài, đây cũng có thể gọi là sự phù trợ, sự trợ giúp to lớn của Hỏa, Hỏa là nguồn động lực to lớn tôi luyện nên sự bền bỉ của Kim.

Tuy nhiên, núi cao còn có núi cao hơn, đó là quy luật, dù có hoàn hảo tới mức nào thì mọi thứ đều có khắc tinh của nó, chính vật đó có thể khắc chế chủ thể Kim, hay thậm chí còn có thể phá hoại cả Kim, đó chính là “ Kiếm Phong Kim “ – “ Đầu Kiếm Vàng “, dù vật có cững, bền bỉ, được tôi luyện gian khổ tới mức nào cũng không thể vượt qua được đầu kiếm vàng.

 

2053 Kiếm Phong Kim : Vàng đầu mũi kiếm. Lâu Túc Kê : Gà nhà gác. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Cũng tương tự như những thân nhân sinh trùng năm 2052, những người sinh năm 2053 sẽ phù hợp với mệnh Kim, được phù trợ, giúp đỡ bởi Hỏa, nhưng cũng sẽ không vượt qua được chính bản thể khác của nó.

Trùng hợp và có mối tương quan với mệnh Kim, Thân Dậu được xếp và hạng 1 trong những hiện thân của ngũ hành.

Trong quá trình sinh trưởng, vị trí lâm quan của Thân Dậu cũng như của mệnh Kim là Thân, còn vị trí đế vượng là ở Dậu.

Cũng như mọi người đã biết, nếu được sinh ra 1 cách hoàn hảo, sinh ra đúng bài bản và đúng quy trình, không dư cũng không thiếu thì chắc chắn sẽ phát triển bình thường, sẽ vững chãi và bền bỉ với thời gian.

Hãy tưởng tượng điều tương tự với mệnh Kim.

Nếu được tạo ra 1 cách bài bản, nguyên chất, được tôi luyện qua môi trường khắc nghiệt thì chắc chắn sẽ bền vững, siêu bền, siêu cứng, siêu dai với ngoại lực,với thời gian, với mọi tác động từ phía bên ngoài, đây cũng có thể gọi là sự phù trợ, sự trợ giúp to lớn của Hỏa, Hỏa là nguồn động lực to lớn tôi luyện nên sự bền bỉ của Kim.

Tuy nhiên, núi cao còn có núi cao hơn, đó là quy luật, dù có hoàn hảo tới mức nào thì mọi thứ đều có khắc tinh của nó, chính vật đó có thể khắc chế chủ thể Kim, hay thậm chí còn có thể phá hoại cả Kim, đó chính là “ Kiếm Phong Kim “ – “ Đầu Kiếm Vàng “, dù vật có cững, bền bỉ, được tôi luyện gian khổ tới mức nào cũng không thể vượt qua được đầu kiếm vàng.

 

2054 Sơn Đầu Hỏa : Lửa trên núi. Thủ Thân Chi Cẩu : Chó giữ lấy mình. Ly Hỏa / Càn Kim. Là hiện thân của Của Trời là Tuất Hợi, kết hợp với việc Giáp Ất thuộc Mộc cho nên có thể có khả năng đốt lửa soi sáng cả cửa trời. Ánh lửa của Tuất Hợi kết hợp với Giáp Ất chắc chắn sẽ bốc lên cực cao mới có thể làm cho cả vùng trời, bao gồm cả cửa trời có thể sáng lóa hơn bao giờ hết.

Điều đó giải nghĩa cho việc tại sao nó lại có tên là Lửa trên núi ( núi được xem là ranh giới giữa trời và đất, là nơi gần với ánh mặt trời nhất ở trần gian ).

Lửa trên núi sẽ khắc họa rõ nhất sự tỏa sáng của ánh mặt trời vào chiều tà, khi mà mặt trời dần xuống núi, ánh mặt trời ở mức tỏa sáng thấp nhất, nhưng, với ánh lửa của Tuất Hợi và Giáp Ất, ánh sáng đó sẽ phát tinh quân, tỏa sáng hơn bất cứ thứ gì trên bầu trời lúc chiều tà.

Lửa trên núi ( Sơn đầu Hỏa ) là khu vực có thể thông với trời, gần với trời nhất nên mệnh này rất may mắn và giàu sang, mệnh này rất quý và chắc chắn sẽ phồn vinh, phát triển trong tương lai.

Lưu ý rằng, Núi phải có cây như Sơn phải có Mộc, phải phát Hỏa tại vị trí đỉnh núi mới có thể tạo ra 1 đợt ánh sáng lung linh nhất của mặt trời, nếu chỉ có Mộc mà không có Hỏa thì ánh mặt trời cũng không tỏa sáng hết công suất của nó. Còn nếu có Hỏa nhưng không có Mộc thì đó cũng chỉ là 1 ánh lửa nhá nhem, không phát quang được ánh mặt trời, không chạm được sức nóng của mình đến với cổng trời.

Lửa ở núi chắc chắn sẽ khắc Thủy, cho nên nếu gặp phải đại hải thủy ngay lúc lửa chạm đến cổng trời thì đó là điều đáng lo ngại, tại họa sắp đến và mang lại tai kiếp khủng khiếp, cũng như mệnh Tuất Hợp – Giáp Ất gặp phải khắc tinh Nhâm Tuất – Quý Hợi.

 

2055 Sơn Đầu Hỏa : Lửa trên núi. Quá Vãng Chi Trư : Lợn hay đi. Cấn Thổ / Đoài Kim. Tương quan với những người sinh năm 2054, người mang mệnh 2055 là Tuất Hợt và Giáp Ất sẽ phát triển nếu gặp quý nhân mệnh Hỏa, nhưng sẽ gặp phải hung thần là người mệnh Thủy, khắc tinh là Nhâm Tuất – Quý Hợi.

Là hiện thân của Của Trời là Tuất Hợi, kết hợp với việc Giáp Ất thuộc Mộc cho nên có thể có khả năng đốt lửa soi sáng cả cửa trời. Ánh lửa của Tuất Hợi kết hợp với Giáp Ất chắc chắn sẽ bốc lên cực cao mới có thể làm cho cả vùng trời, bao gồm cả cửa trời có thể sáng lóa hơn bao giờ hết.

Điều đó giải nghĩa cho việc tại sao nó lại có tên là Lửa trên núi ( núi được xem là ranh giới giữa trời và đất, là nơi gần với ánh mặt trời nhất ở trần gian ).

Lửa trên núi sẽ khắc họa rõ nhất sự tỏa sáng của ánh mặt trời vào chiều tà, khi mà mặt trời dần xuống núi, ánh mặt trời ở mức tỏa sáng thấp nhất, nhưng, với ánh lửa của Tuất Hợi và Giáp Ất, ánh sáng đó sẽ phát tinh quân, tỏa sáng hơn bất cứ thứ gì trên bầu trời lúc chiều tà.

Lửa trên núi ( Sơn đầu Hỏa ) là khu vực có thể thông với trời, gần với trời nhất nên mệnh này rất may mắn và giàu sang, mệnh này rất quý và chắc chắn sẽ phồn vinh, phát triển trong tương lai.

Lưu ý rằng, Núi phải có cây như Sơn phải có Mộc, phải phát Hỏa tại vị trí đỉnh núi mới có thể tạo ra 1 đợt ánh sáng lung linh nhất của mặt trời, nếu chỉ có Mộc mà không có Hỏa thì ánh mặt trời cũng không tỏa sáng hết công suất của nó. Còn nếu có Hỏa nhưng không có Mộc thì đó cũng chỉ là 1 ánh lửa nhá nhem, không phát quang được ánh mặt trời, không chạm được sức nóng của mình đến với cổng trời.

Lửa ở núi chắc chắn sẽ khắc Thủy, cho nên nếu gặp phải đại hải thủy ngay lúc lửa chạm đến cổng trời thì đó là điều đáng lo ngại, tại họa sắp đến và mang lại tai kiếp khủng khiếp, cũng như mệnh Tuất Hợp – Giáp Ất gặp phải khắc tinh Nhâm Tuất – Quý Hợi.

 

2056 Giãn Hạ Thủy : Nước dưới khe. Điền Nội Chi Thử : Chuột trong ruộng. Đoài Kim / Cấn Thổ. Thịnh vượng ở Tí, suy yếu dần ở Sửu, đó là số mệnh của Thủy trong ngũ hành các năm cho nên Thủy trong Bính Tý Đinh Sửu không thể gọi là nước ở sông , nước ở biển mà là nước ở khe suối, vì nó đã bị suy yếu dần khi thời gian trôi dần về sau.

Khi mới hình thành, mới bắt đầu được sinh ra thì thánh thót, lăn tăn, gợn song, rồi dần dần hợp lại với các dòng chảy khác, hợp với những dòng nước khác tạo thành dòng nước chảy xiết nhưng không may mắn va phải nhiều trở ngại, đá cây mà bị phân tách, tung tóe thành những mảnh nhỏ như hạt tuyết. cuối cùng số phận của Giãn Hạ Thủy là tích hợp các tinh thể trôi về hạ lưu của nhiều nhánh khác nhau, không thống nhất được lại với nhau mà cứ tách ra dần từ 1 khối lớn thành các khối nhỏ dần nhỏ dần và bị hòa tan ở hạ lưu.

Với hình dạng của khe nước thì hình dạng của Giãn Hạ Thủy chắc chắn sẽ là mảnh khảnh, thanh mảnh, mềm yếu, thon thả và dế bị phân hủy.

Theo như trong sách phong thủy thì mệnh Thủy phù hợp với Kim, phù hợp gặt cát và kim lưỡi kiếm  ( Giáp ngọ ất mùi sa trung kim , nhâm thân quý dậu kim lưỡi kiếm ) nhưng Thủy lại khắc với Hỏa và Thổ. Thủy và Hỏa vốn là 2 thái cực, vốn chẳng thể hòa thuận chẳng thể nào về chung 1 nhà, Thổ lại là tác nhân là cho Thủy thêm bẩn thêm đục, thêm dơ, cho nên cần phải tránh gặp mặt, quen biết 2 mệnh này ( Hỏa Thổ ).

Tốt nhất đối với người mệnh này vẫn là Giáp Dần – Ất Mão ( giáp dần ất mão đại khuê thủy ), đây là các mệnh tương hợp, có thể giúp đỡ nhau phát triển, hợp lại với nhau thành 1 nhánh sông lớn hay còn gọi là 1 con suối nhỏ, từ đó chảy dần về các con sông lớn hơn, càng chảy càng dài mà chẳng cần phải lo nghĩ bị phá hủy hay phân thành những mãnh nhỏ hơn.

 

2057 Giãn Hạ Thủy : Nước dưới khe. Hồ Nội Chi Ngưu : Trâu trong hồ nước. Càn Kim / Ly Hỏa. Thịnh vượng ở Tí, suy yếu dần ở Sửu, đó là số mệnh của Thủy trong ngũ hành các năm cho nên Thủy trong Bính Tý Đinh Sửu không thể gọi là nước ở sông , nước ở biển mà là nước ở khe suối, vì nó đã bị suy yếu dần khi thời gian trôi dần về sau.

Khi mới hình thành, mới bắt đầu được sinh ra thì thánh thót, lăn tăn, gợn song, rồi dần dần hợp lại với các dòng chảy khác, hợp với những dòng nước khác tạo thành dòng nước chảy xiết nhưng không may mắn va phải nhiều trở ngại, đá cây mà bị phân tách, tung tóe thành những mảnh nhỏ như hạt tuyết. cuối cùng số phận của Giãn Hạ Thủy là tích hợp các tinh thể trôi về hạ lưu của nhiều nhánh khác nhau, không thống nhất được lại với nhau mà cứ tách ra dần từ 1 khối lớn thành các khối nhỏ dần nhỏ dần và bị hòa tan ở hạ lưu.

Với hình dạng của khe nước thì hình dạng của Giãn Hạ Thủy chắc chắn sẽ là mảnh khảnh, thanh mảnh, mềm yếu, thon thả và dế bị phân hủy.

Theo như trong sách phong thủy thì mệnh Thủy phù hợp với Kim, phù hợp gặt cát và kim lưỡi kiếm  ( Giáp ngọ ất mùi sa trung kim , nhâm thân quý dậu kim lưỡi kiếm ) nhưng Thủy lại khắc với Hỏa và Thổ. Thủy và Hỏa vốn là 2 thái cực, vốn chẳng thể hòa thuận chẳng thể nào về chung 1 nhà, Thổ lại là tác nhân là cho Thủy thêm bẩn thêm đục, thêm dơ, cho nên cần phải tránh gặp mặt, quen biết 2 mệnh này ( Hỏa Thổ ).

Tốt nhất đối với người mệnh này vẫn là Giáp Dần – Ất Mão ( giáp dần ất mão đại khuê thủy ), đây là các mệnh tương hợp, có thể giúp đỡ nhau phát triển, hợp lại với nhau thành 1 nhánh sông lớn hay còn gọi là 1 con suối nhỏ, từ đó chảy dần về các con sông lớn hơn, càng chảy càng dài mà chẳng cần phải lo nghĩ bị phá hủy hay phân thành những mãnh nhỏ hơn.

 

2058 Thành Đầu Thổ : Đất trên thành. Quá Sơn Chi Hổ : Hổ qua rừng. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Theo như ngũ hành, 1 trong những mệnh thuộc Thổ và Mộc theo thứ tự là Thiên Can – Mậu Kĩ , Dần – Mão.

Cũng giống như việc tích đất thành núi, càng nhiều đất đai được bù đắp vào ( thổ thịnh ) sẽ phát triển thành núi,  mà khi phát triển thành núi thì không thể thiếu vắng sự góp mặt của cây cối ( sinh Mộc ), hay có thể hiểu ở 1 phạm vi nhỏ hơn, đó là dùng đất ( Thổ ) để xây dựng nên những bức tường thành, những nơi an cư lạc nghiệp, xây dựng nên mái ấm gia đình cũng từ đất và cây ( Thổ – Mộc ).

Điều này đã được minh chứng từ xưa, khi các nhà vua dùng Đất và Cây ( Thổ và Mộc ) để xây dựng cung điện, xây dựng những tòa thành vững chải và những tượng đài nguy nga, hàng trăm bức tượng sư tử được hình thành, hàng trăm con rồng được tạo ra bay  lượn hàng trăm dặm quanh các tòa thành, cung điện, hình tượng mãnh hỗ cũng từ đó được dựng nên, tọa thế trấn cả 4 phương trời.

Tuy nhiên, mệnh này nếu gặp nước, gặp núi là hiển quy. Nếu ở trong thành mà gặp phải núi, gặp phải nước thì chắc chắn núi giả, nước tù thì càng không phải là quý hiếm gì. Cho nên mệnh này nên kỵ với  Nhâm Tuất – Quý Hợi ( Đại Hải Thủy ) , Mậu Tý – Kỉ Sửu ( Bích Lôi Hỏa , Tích Lịch Hỏa ).

 

2059 Thành Đầu Thổ : Đất trên thành. Sơn Lâm Chi Mão : Mèo ở rừng. Tốn Mộc / Khôn Thổ. Cũng tương tự như những người được sinh vào năm 2058, những người sinh vào năm 2059 cũng sẽ phù hợp với Mộc – Thổ, kị với Thủy Hỏa.

Theo như ngũ hành, 1 trong những mệnh thuộc Thổ và Mộc theo thứ tự là Thiên Can – Mậu Kĩ , Dần – Mão.

Cũng giống như việc tích đất thành núi, càng nhiều đất đai được bù đắp vào ( thổ thịnh ) sẽ phát triển thành núi,  mà khi phát triển thành núi thì không thể thiếu vắng sự góp mặt của cây cối ( sinh Mộc ), hay có thể hiểu ở 1 phạm vi nhỏ hơn, đó là dùng đất ( Thổ ) để xây dựng nên những bức tường thành, những nơi an cư lạc nghiệp, xây dựng nên mái ấm gia đình cũng từ đất và cây ( Thổ – Mộc ).

Điều này đã được minh chứng từ xưa, khi các nhà vua dùng Đất và Cây ( Thổ và Mộc ) để xây dựng cung điện, xây dựng những tòa thành vững chải và những tượng đài nguy nga, hàng trăm bức tượng sư tử được hình thành, hàng trăm con rồng được tạo ra bay  lượn hàng trăm dặm quanh các tòa thành, cung điện, hình tượng mãnh hỗ cũng từ đó được dựng nên, tọa thế trấn cả 4 phương trời.

Tuy nhiên, mệnh này nếu gặp nước, gặp núi là hiển quy. Nếu ở trong thành mà gặp phải núi, gặp phải nước thì chắc chắn núi giả, nước tù thì càng không phải là quý hiếm gì. Cho nên mệnh này nên kỵ với  Nhâm Tuất – Quý Hợi ( Đại Hải Thủy ) , Mậu Tý – Kỉ Sửu ( Bích Lôi Hỏa , Tích Lịch Hỏa ).

 

2060 Bạch Lạp Kim : Vàng trong nền rắn. Thứ Tính Chi Long : Rồng khoan dung. Chấn Mộc / Chấn Mộc. Mệnh Kim được hình thành trong đất ( hay còn gọi là Mộc sinh Kim ). Nhưng sau đó thì Kim phải ở cùng với Hỏa để có thể có được hình thái hoàn mỹ nhất, cứng cỏi nhất.

Lúc đầu, khi mới được hình thành và chưa đạt được hình thái hoàn mỹ nhất, Kim được gọi là Kim giá đèn, tức chỉ được dùng để treo những vật nhẹ, còn yếu ớt, chưa thật sự cứng cáp và vững vàng.

Khi khí của Kim vừa mới hình thành và phát triển, Kim giao thoa, phối hợp với tinh hoa của Âm dương, đất trời, tạo nên khí thịnh.

Khi vừa hình thành Kim giá đèn thích ứng với Thủy và tương hợp với Thủy như Canh thìn, Tân Tỵ  gặp được Ất Tỵ, có thể ví như hổ thêm cánh, “ Mãnh hỗ phong cánh “, cuộc sống, thi cử, học tập, công việc trở nên suôn sẻ, tốt đẹp, thuận tiện và phát triển cao xa hơn.

Thích hợp nhất với Kim sẽ là Ất Dậu và Quý Tỵ. Trong ngũ hành số mệnh, người ta gọi đó là Quý Mệnh.

Bởi vì Bạch Lạp Kim tính vốn yếu ớt, dễ vỡ cho nên sẽ khắc với Mộc, sợ Mộc, trừ khi Bạch Lạp Kim gặp phải Hỏa yếu, gặp phải lửa suy mới cần phải có sự trợ giúp ngược lại của Mộc, dựa vào Mộc để phát huy thêm sức mạnh của Hỏa, từ đó gia tăng thêm sự vững bền của Bạch Lạp Kim.

 

2061 Bạch Lạp Kim : Vàng trong nền rắn. Đông Tàn Chi Xà : Rắn ngủ đông. Khôn Thổ / Tốn Mộc. Cũng giống như năm 2060, những người sinh năm 2061 sẽ thích hợp với người mệnh Hỏa, nhờ hỏa để phát triển tốt hơn, nếu gặp hỏa yếu thì cần phối hợp với mộc để tăng cường năng lực.

Mệnh Kim được hình thành trong đất ( hay còn gọi là Mộc sinh Kim ). Nhưng sau đó thì Kim phải ở cùng với Hỏa để có thể có được hình thái hoàn mỹ nhất, cứng cỏi nhất.

Lúc đầu, khi mới được hình thành và chưa đạt được hình thái hoàn mỹ nhất, Kim được gọi là Kim giá đèn, tức chỉ được dùng để treo những vật nhẹ, còn yếu ớt, chưa thật sự cứng cáp và vững vàng.

Khi khí của Kim vừa mới hình thành và phát triển, Kim giao thoa, phối hợp với tinh hoa của Âm dương, đất trời, tạo nên khí thịnh.

Khi vừa hình thành Kim giá đèn thích ứng với Thủy và tương hợp với Thủy như Canh thìn, Tân Tỵ  gặp được Ất Tỵ, có thể ví như hổ thêm cánh, “ Mãnh hỗ phong cánh “, cuộc sống, thi cử, học tập, công việc trở nên suôn sẻ, tốt đẹp, thuận tiện và phát triển cao xa hơn.

Thích hợp nhất với Kim sẽ là Ất Dậu và Quý Tỵ. Trong ngũ hành số mệnh, người ta gọi đó là Quý Mệnh.

Bởi vì Bạch Lạp Kim tính vốn yếu ớt, dễ vỡ cho nên sẽ khắc với Mộc, sợ Mộc, trừ khi Bạch Lạp Kim gặp phải Hỏa yếu, gặp phải lửa suy mới cần phải có sự trợ giúp ngược lại của Mộc, dựa vào Mộc để phát huy thêm sức mạnh của Hỏa, từ đó gia tăng thêm sự vững bền của Bạch Lạp Kim.

 

2062 Dương Liễu Mộc : Cây dương liễu. Quân Trung Chi Mã : Ngựa chiến trung thần. Khảm Thủy / Cấn Thổ. Mộc tử ở Ngọ mộ, tàn ở Mùi.

Một khi Mộc đã tử, đã dựng nên mộ tang, thì chỉ còn cách dùng Thiên Can Nhâm Quý Thủy để cứu sống nó trở lại như thuyết ngũ hành đã đề cập.

Nhưng rốt cuộc thì sau khi được cứu sống dậy, với sức sống mới được hình thành, Mộc vẫn chỉ là sơ sinh, vẫn còn yếu ớt và non kém, vẫn cần rất nhiều đến sự giúp đỡ của Thổ để trở nên vững bền hơn, mạnh mẽ hơn và sức chịu đựng tốt hơn. Nó cũng giống như tằm, nhả vạn mối dây tơ thì nếu nằm riêng lẻ và mới được phóng ra, nó vẫn là những nợi mảnh khảnh nhỏ và dễ đứt, cho đến khi có nhiều sợi hợp lại và tạo nên 1 khối bền vững.

Cây Dương Liễu ( tức Dương Liễu Mộc ) chỉ thích hợp với các mệnh Bính Tuất, Đinh Hợi thổ, nhưng nó lại thích ứng với Thủy, nếu gặp thủy lành, thủy tốt, sẽ làm cho thổ tốt, thổ giàu sẽ chia sẻ cho mộc, làm mộc phát triển.

Trừ Đại Hải Thủy ra, Dương Liễu Mộc có thể kết hợp hoàn hảo với các mệnh Thủy để phát triển mạnh mẽ, bền vững hơn.

Bản tấy Dương Liễu Mộc dù sao cũng là cây cỏ, cho nên dễ bị phá hủy, bị thiêu rụi bởi Hỏa, nếu gặp phải những người mệnh Hỏa như Canh Thìn, Tân Dậu thạch lựu mộc sẽ bị sự thịnh vượng của cây thạch lựu áp chế, khiến cho cây dương liễu bị áp chế, 1 đời bần tiện, cuộc sống bôn ba, khó khăn vất vả, khó có thể giàu sang.

 

2063 Dương Liễu Mộc : Cây dương liễu. Quần Nội Chi Dương : Dê trong bầy đàn. Ly Hỏa / Càn Kim. Cũng có thể so sánh và thấy sự tương đồng của năm 2062 và 2063 cũng là Dương Liễu Mộc, cũng là sự yếu đuối nhưng thịnh vượng nhờ Thổ và suy yếu do thạch lựu, bị tàn phá do Hỏa.

Mộc tử ở Ngọ mộ, tàn ở Mùi.

Một khi Mộc đã tử, đã dựng nên mộ tang, thì chỉ còn cách dùng Thiên Can Nhâm Quý Thủy để cứu sống nó trở lại như thuyết ngũ hành đã đề cập.

Nhưng rốt cuộc thì sau khi được cứu sống dậy, với sức sống mới được hình thành, Mộc vẫn chỉ là sơ sinh, vẫn còn yếu ớt và non kém, vẫn cần rất nhiều đến sự giúp đỡ của Thổ để trở nên vững bền hơn, mạnh mẽ hơn và sức chịu đựng tốt hơn. Nó cũng giống như tằm, nhả vạn mối dây tơ thì nếu nằm riêng lẻ và mới được phóng ra, nó vẫn là những nợi mảnh khảnh nhỏ và dễ đứt, cho đến khi có nhiều sợi hợp lại và tạo nên 1 khối bền vững.

Cây Dương Liễu ( tức Dương Liễu Mộc ) chỉ thích hợp với các mệnh Bính Tuất, Đinh Hợi thổ, nhưng nó lại thích ứng với Thủy, nếu gặp thủy lành, thủy tốt, sẽ làm cho thổ tốt, thổ giàu sẽ chia sẻ cho mộc, làm mộc phát triển.

Trừ Đại Hải Thủy ra, Dương Liễu Mộc có thể kết hợp hoàn hảo với các mệnh Thủy để phát triển mạnh mẽ, bền vững hơn.

Bản tấy Dương Liễu Mộc dù sao cũng là cây cỏ, cho nên dễ bị phá hủy, bị thiêu rụi bởi Hỏa, nếu gặp phải những người mệnh Hỏa như Canh Thìn, Tân Dậu thạch lựu mộc sẽ bị sự thịnh vượng của cây thạch lựu áp chế, khiến cho cây dương liễu bị áp chế, 1 đời bần tiện, cuộc sống bôn ba, khó khăn vất vả, khó có thể giàu sang.

 

2064 Tuyền Trung Thủy : Dưới giữa dòng suối. Quá Thụ Chi Hầu : Khỉ leo cây. Cấn Thổ / Đoài Kim. Đối với Kim kiếm, lộc của nó sẽ nằm ở Thân, vượng sẽ ở Dậu.

Kim sau khi phát triển bền vững, nhận được độ cứng ổn định, đủ vững vàng, đủ cứng cáp sẽ có thể dựa vào Hỏa để sinh Thủy. Nhưng hãy thử nghĩ xem, khi mà Kim kết hợp với Hỏa tạo ra Thủy thì chắc chắn đây không thể nào là Thủy vượng được, đó là Thủy tàn. Trong lúc vừa được tạo ra bởi Kim và Hỏa, Thủy này chỉ là 1 lượng ít ỏi,  cho nên sẽ được gọi là nước trong suối.

Còn nếu nói theo phong thủy thì có Kim, Thủy sẽ không bao giờ ngừng tạo ra và ngừng chảy, đó là theo tính chất cơ bản của nó, được hiểu ra từ nguồn gốc của nó.

Lấy Giáp Ngọ – Ất Mùi sa trung kim, Canh Tuất – Tân Hợi thoa xuyến kim là tốt nhất, hay nếu vô tình có thể gặp được Thủy hoặc Mộc cũng tốt.

Tuy nhiên, sẽ là hiếm hoi hơn nếu những người được sinh vào tứ trụ theo năm tháng ngày giờ. Năm và giờ đều có trụ là Thủy, ngày tháng, cả 2 đầu có trụ Mộc. Đây được gọi là người có mệnh Đại Phú Quý, sẽ mau chóng giàu có, may mắn, hạnh phúc, sự nghiệp phất lên như diều gặp gió, danh tiếng vang vọng 1 đời.

 

2065 Tuyền Trung Thủy : Nước giữa dòng sông. Xướng Ngọ Chi Kê : Gà gáy trưa. Đoài Kim / Cấn Thổ. Cũng là sự tương đồng với những người sinh năm 2064, những người sinh năm 2065 cũng sẽ thích hợp với mệnh Kim, sẽ là phù trợ đắc lực cho Thủy và có mệnh đại phú quý với tứ trụ.

Đối với Kim kiếm, lộc của nó sẽ nằm ở Thân, vượng sẽ ở Dậu.

Kim sau khi phát triển bền vững, nhận được độ cứng ổn định, đủ vững vàng, đủ cứng cáp sẽ có thể dựa vào Hỏa để sinh Thủy. Nhưng hãy thử nghĩ xem, khi mà Kim kết hợp với Hỏa tạo ra Thủy thì chắc chắn đây không thể nào là Thủy vượng được, đó là Thủy tàn. Trong lúc vừa được tạo ra bởi Kim và Hỏa, Thủy này chỉ là 1 lượng ít ỏi,  cho nên sẽ được gọi là nước trong suối.

Còn nếu nói theo phong thủy thì có Kim, Thủy sẽ không bao giờ ngừng tạo ra và ngừng chảy, đó là theo tính chất cơ bản của nó, được hiểu ra từ nguồn gốc của nó.

Lấy Giáp Ngọ – Ất Mùi sa trung kim, Canh Tuất – Tân Hợi thoa xuyến kim là tốt nhất, hay nếu vô tình có thể gặp được Thủy hoặc Mộc cũng tốt.

Tuy nhiên, sẽ là hiếm hoi hơn nếu những người được sinh vào tứ trụ theo năm tháng ngày giờ. Năm và giờ đều có trụ là Thủy, ngày tháng, cả 2 đầu có trụ Mộc. Đây được gọi là người có mệnh Đại Phú Quý, sẽ mau chóng giàu có, may mắn, hạnh phúc, sự nghiệp phất lên như diều gặp

gió, danh tiếng vang vọng 1 đời.

 

2066 Ốc Thượng Thổ : Đất trên nóc nhà. Tự Miên Chi Cẩu : Chó đang ngủ. Càn Kim / Ly Hỏa. Xét theo như sách phong thủy thì Bính Đinh thuộc mệnh Hỏa, còn Tuất Hợi thì được ví như là đôi cánh của trời. Lửa đang bốc cháy ngùn ngụt, nghi ngút và mạnh mẽ như vậy nhưng tuyệt nhiên không ở dưới mặt đất mà lại là trên trời thì mặt đất, hay còn gọi là Thổ lúc này không phải là Thổ ở dưới đất nữa, nếu ở dưới đất sẽ không thể nào phò trợ, tiếp cận với Hỏa được,  Thổ này phải ở trên cao nên được gọi là Ốc Thượng Thổ ( Đất Trên Nóc Nhà ).

Nghe đến đây thì sẽ có nhiều mâu thuẫn, bởi đất làm sao có thể ở trên nóc nhà được, phải chăng lấy đất lợp trên mái nhà để tạo ra Ốc Thượng Thổ ?

Thực tế mà nói, trên mái nhà, luôn luôn là gạch, ngói, mà gạch ngói thì từ đâu ra, gạch ngói chính từ Thổ mà ra.

Tuất Hợi thì ví như Thổ, gặp phải thủy lại hóa thành bùn, đất để lâu kết hợp với nước sẽ bị mềm dẽo hóa, đất lúc này không còn cứng cáp nữa mà dễ dàng bị nhào nặn, tác động bên ngoài để thay đổi hình dáng. Nhưng nếu kết hợp giữ Thổ, Thủy và Hỏa, dưới sức nóng của Hỏa, những mảnh đất bị tác động bởi Thủy ( gọi tắt là Bùn ) sẽ được cô đặc lại, cấu trúc trở nên bền vững hơn, bề ngoài cứng cáp, vững vàng hơn, từ đó bùn mới có thể thành gạch, thành ngói để xây nhà, lợp phòng, lợp mái nhà.

Vì đất trên nhà đã là gạch, ngói, nhưng nếu chỉ riêng là gạch ngói thì không thể vững vàng trên mái mãi được, “ Thổ “ này cần sự giúp đỡ to lớn của Mộc để vững vàng hơn, tồn tại lâu dài hơn. Mộc sẽ là giá đỡ vững chải cho Ốc Thượng Thổ, sau đó có thể dùng Kim để tô điểm thêm cho Ốc Thượng Thổ, tăng thêm vẻ đẹp bên ngoài của nó.

Thổ trên mái nhà mà đính đầy Kim vàng, Kim huy hoàng thì là 1 điều đại cát đại quý, vận may phú quý muôn đời. Cho nên nếu mệnh Ốc Thượng Thổ này gặp phải Kim Phong Kiếm hoặc Kim Trang Sức đều sẽ là đại cát phú quý, đại lợi muôn đời.

Mặc dù suy cho cùng thì Ốc Thượng Thổ cũng sẽ sợ Hỏa, bởi nếu Hỏa quá thịnh thì dù có là Thổ được bọc Kim, Thổ được tôi luyện bền bỉ với thủy và Hỏa thì cũng sẽ bị thiêu rụi bởi sức nóng to lớn mà Hỏa thịnh tạo ra, nhưng nếu Hỏa thịnh đó là Thiên Thượng Hỏa thì lại là điều lành cho Ốc Thượng Thổ, vì dù là năng lượng từ Hỏa này rất lớn, nhưng đây là Hỏa lành, không đem lại tác hại lớn tới mức phá hủy Ốc Thượng Thổ, đây là 1 ánh lửa tốt, tượng trưng cho ánh nắng của mặt trời, chan hòa, ấm áp, mang lại ánh sáng cho khắp phương trời, còn gọi là mệnh phù trợ.

 

2067 Ốc Thượng Thổ : Đất trên nóc nhà. Quá Sơn Chi Trư : Lợn qua núi. Khôn Thổ / Khảm Thủy. Được sanh là tương tự với Ốc Thượng Thổ của năm 2066, những người sinh năm 2067 cũng sẽ nhận được số mệnh tương tự khi qua sự tôi luyện của Thủy và Hỏa nhưng nếu là Hỏa thịnh thượng thì khác mà Thiên Thượng Hỏa thì sẽ khác.

Xét theo như sách phong thủy thì Bính Đinh thuộc mệnh Hỏa, còn Tuất Hợi thì được ví như là đôi cánh của trời. Lửa đang bốc cháy ngùn ngụt, nghi ngút và mạnh mẽ như vậy nhưng tuyệt nhiên không ở dưới mặt đất mà lại là trên trời thì mặt đất, hay còn gọi là Thổ lúc này không phải là Thổ ở dưới đất nữa, nếu ở dưới đất sẽ không thể nào phò trợ, tiếp cận với Hỏa được,  Thổ này phải ở trên cao nên được gọi là Ốc Thượng Thổ ( Đất Trên Nóc Nhà ).

Nghe đến đây thì sẽ có nhiều mâu thuẫn, bởi đất làm sao có thể ở trên nóc nhà được, phải chăng lấy đất lợp trên mái nhà để tạo ra Ốc Thượng Thổ ?

Thực tế mà nói, trên mái nhà, luôn luôn là gạch, ngói, mà gạch ngói thì từ đâu ra, gạch ngói chính từ Thổ mà ra.

Tuất Hợi thì ví như Thổ, gặp phải thủy lại hóa thành bùn, đất để lâu kết hợp với nước sẽ bị mềm dẽo hóa, đất lúc này không còn cứng cáp nữa mà dễ dàng bị nhào nặn, tác động bên ngoài để thay đổi hình dáng. Nhưng nếu kết hợp giữ Thổ, Thủy và Hỏa, dưới sức nóng của Hỏa, những mảnh đất bị tác động bởi Thủy ( gọi tắt là Bùn ) sẽ được cô đặc lại, cấu trúc trở nên bền vững hơn, bề ngoài cứng cáp, vững vàng hơn, từ đó bùn mới có thể thành gạch, thành ngói để xây nhà, lợp phòng, lợp mái nhà.

Vì đất trên nhà đã là gạch, ngói, nhưng nếu chỉ riêng là gạch ngói thì không thể vững vàng trên mái mãi được, “ Thổ “ này cần sự giúp đỡ to lớn của Mộc để vững vàng hơn, tồn tại lâu dài hơn. Mộc sẽ là giá đỡ vững chải cho Ốc Thượng Thổ, sau đó có thể dùng Kim để tô điểm thêm cho Ốc Thượng Thổ, tăng thêm vẻ đẹp bên ngoài của nó.

Thổ trên mái nhà mà đính đầy Kim vàng, Kim huy hoàng thì là 1 điều đại cát đại quý, vận may phú quý muôn đời. Cho nên nếu mệnh Ốc Thượng Thổ này gặp phải Kim Phong Kiếm hoặc Kim Trang Sức đều sẽ là đại cát phú quý, đại lợi muôn đời.

Mặc dù suy cho cùng thì Ốc Thượng Thổ cũng sẽ sợ Hỏa, bởi nếu Hỏa quá thịnh thì dù có là Thổ được bọc Kim, Thổ được tôi luyện bền bỉ với thủy và Hỏa thì cũng sẽ bị thiêu rụi bởi sức nóng to lớn mà Hỏa thịnh tạo ra, nhưng nếu Hỏa thịnh đó là Thiên Thượng Hỏa thì lại là điều lành cho Ốc Thượng Thổ, vì dù là năng lượng từ Hỏa này rất lớn, nhưng đây là Hỏa lành, không đem lại tác hại lớn tới mức phá hủy Ốc Thượng Thổ, đây là 1 ánh lửa tốt, tượng trưng cho ánh nắng của mặt trời, chan hòa, ấm áp, mang lại ánh sáng cho khắp phương trời, còn gọi là mệnh phù trợ.