Sách Phong Thủy Chọn Ngày Lành Tháng Tốt

70. CHƯƠNG VIII: TRI THỨC GIA ĐÌNH

8-3, QUY LOẠI TƯỢNG SỐ BÁT QUÁI

“Chữa bệnh theo chu dịch” do hai học giả Lý Sơn Ngọc và Lý Kiện Dân, Bác sỹ (BS) ngành giáo dục bên Trung Iloa biên soạn, Các ông tuân thủ nguyên lý tượng số dịch tượng, đồng thời lấy lý luận tàng tượng của Đông y làm cơ sở, kết hợp với ý niệm khí công, độ sáng tạo ra một phương pháp điều trị bằng khí công loại mới, (khí công nhưng không động). “tượng dĩ dịch số” “số dĩ trưng tượng”,

Xem thêm các mẫu Thạch Anh Vụn:

https://kimtuthap.vn/cung-cap-da-thach-anh-vun-phong-thuy-dai-nen-nha-dung-trong-xay-dung/

Đá Thạch anh vụn rải nền nhà

Dịch học cho rằng bát quái là mô thức cơ bản của kết cấu vũ trụ, tượng của bát quái là tượng trưng vạn sự, vạn vật (kể cả phủ tạng cơ thể con người), số của bát quái là dịch số của vạn sự, vạn vật trong vũ trụ. Tượng số là kết quả tạo hóa tự nhiên, là căn nguyên về sự vận động của vũ trụ, lớn như thiên thể, nhỏ như phủ tạng tế bào của cơ thể người đều như nhau, tức luật toàn tức sinh vật. Khi có bão từ ở các thiên thể, từ trường thiên nhiên tăng đột xuất, làm thay đổi trường xoắn vũ trụ, trường xoắn nhân thể không thích nghi kịp với trường xoắn vũ trụ, gây nên âm dương sai lệch. Tất cả sự vật trong thế gian đều tồn tại hai mặt âm và dương đối lập và tương hỗ nhau. BS. Lý Ngọc Sơn thí nghiệm: Khi người bệnh đọc nhẩm một nhóm số bát quái, sẽ hình thành sóng tin tức với năng lượng nào đó, những sóng này sẽ vận chuyển từ đại não đến mọi phương vị của phủ tạng. Sẽ làm thức tỉnh phủ tạng, kích thích hoạt động tin tức vào bát quái tương ứng, điều chỉnh chức năng chính thể và xung kích vào ổ bệnh. Khiến các tổ chức bát quái từ vô trật tự chuyển sang có trật tự, khiến trường cơ thể cộng hưởng chấn động đồng bộ với các thiên thể, từ đó hợp nhất được trời với người, sẽ thông các kinh lạc trong cơ thể, cân bằng âm dương, điều hòa khí huyết.

Từ “Chu dịch” các văn kiện cổ tìm được, ứng dụng vào cơ thể người để chữa bệnh. BS. Lý Ngọc Sơn lấy Càn (1) làm đầu; Đoài (2) làm đại tràng mặt, tim; Chấn (3) làm chân, Can; Tốn (4) làm đùi, mật; Khảm (6) là tai, thận; Cấn (7) là tay dạ dầy; Khôn (8) là tay, bụng tỳ. Đã tìm ra cách ghi toa thuốc của các danh у cổ xưa “Thiên địa chi cốt”, BS. Còn phát hiện ra cách dùng số trong các đơn thuốc có ghi “Đại táo 6 quả” mà không cần trọng lượng to nhỏ nhỏ “6 quả” điều đó chẳng phải là ngẫu nhiên chăng? Không chỉ là 6 quả có tác dụng dược tính của nó, mà số 6 cũng là mảnh cắt về tin tức, điều đó nói nên rằng người xưa đã dùng tượng số kết hợp với thuốc trên lâm sàng. Do âm dương bên mạnh bên yếu, đó là nguyên nhân căn bản phát sinh bệnh tật; vì thế điều chỉnh âm dương, khiến cân bằng tương đối là phương pháp cơ bản của điều trị tượng số do BS. Lý Ngọc Sơn dựa trên thực tiễn lâm sàng đã bao quát các đặc điểm của tượng số là: “tự nhiên”, “tự do”, “tự vị” và “mỗi chìa mở một khóa” khi niệm tượng số không câu nệ vào thời gian, địa điểm, tư thế, phương hướng, tự mình lo liệu không cần có sự giám thị của thầy, trong sinh hoạt bình thường có thể tiến hành cả khi đi, khi ngồi, và khi nằm. Nếu như khi thả lỏng nhập tĩnh, hoặc trước khi ngủ, sau thức giấc cũng có thể niệm thì hiệu quả càng tốt. Chỉ cần đầu, dạ dày và tim không có cảm giác gì lạ là có thể tiếp tục niệm, tức là đã sản sinh tác dụng chữa bệnh. Căn cứ vào bệnh tình, thời gian mỗi lần niệm có thể dài hoặc ngắn lúc nào nghĩ tới là niệm hoặc tượng niệm đều được cả. Tất cả đều tuân theo tự nhiên. Trong quá trình điều trị, căn cứ vào sự thay đổi bệnh tình mà điều chỉnh thích đáng tượng số, nếu cảm thấy dễ chịu thì vẫn niệm như bài đang niệm không nên thay đổi. Ngược lại thấy đầu, dạ dày, tim đập thất thường, không thoải mái, ngắn hơi, khó chịu vv… thì ngừng ngay.

Những người bệnh tâm thần không bình thường, hay quên, trí nhớ kém thì cấm sử dụng.

Sau khi người bệnh khỏi, có thể tiếp tục niệm như cũ để củng có hiệu quả điều trị và tăng cường sức khỏe.

Liệu pháp tượng số từ đầu đến cuối phải trên nguyên tắc theo lý: “pháp vụ âm dương, hợp vu thuật số”. Như âm hư dương vang (tiến) thì phải tư âm tiềm dương, thí dụ về mặt “lấy tượng theo phân loại”, “chẳng qua là đem tượng về sinh lý bệnh lý của các tạng phủ quy về ngũ hành, rồi tiến thêm một bước quy vào bát quái. Cho dù sự biến hóa của bệnh biến phức tạp, nhưng đều có thể do “âm dương thất điều”, “âm thịnh tắc hàn, dương thịnh tắc nhiệt, dương hư tắc hàn, âm hư tắc nhiệt” để thuyết minh một cách khái quát “dương tổn cập âm” “âm tổn cập dương” cuối cùng là âm dương lưỡng hư.

Nguyên nhân căn bản phát sinh và phát triển bệnh tật là do mất cân bằng âm dương, bất cứ chứng bệnh nào, cho dù biểu hiện lâm sàng phức tạp đến đâu, thiên biến vạn hóa thế nào cũng có thể khái quát là “chứng âm và chứng dương”. Trên lâm sàng thường dùng bát cương biện chứng làm cương lĩnh các loại biện chứng, mà âm dương trong đó lại là tổng cương, lấy biểu lý thống lĩnh làm bằng, hàn nhiệt, hư thực, tức biểu lý nhiệt, thực thuộc dương, còn lý là hàn hư thuộc âm thí dụ: Đoán bằng nhìn: nếu thấy màu sắc trơn nhẵn tươi sáng là thuộc dương, nếu tối ám thuộc âm; đoán bằng nghe: âm thanh trong rõ thuộc dương, đứt quãng thuộc âm; bằng bắt mạch: nếu là mạch nổi, số, đại hoạt, thực thuộc dương, nếu trầm, chậm, nhỏ, sáp hư thuộc âm. Cho nên để chuẩn đoán chính xác, trước hết phải phân rõ âm dương, mới nắm vững được bản chất của bệnh tật. Trong âm dương ứng dụng đại luận” nói: “thiện chân giả, sắc sắc án mạch, tiên biệt âm dương”. Đó là cái lý của tổng cương biện chứng âm dương.

Liệu pháp tượng số từ đầu đến cuối phải trên nguyên tắc theo lý “pháp vu âm dương, hợp vu thuật số” để cho lý luận âm dương xuyên suốt từ đầu đến cuối. Như âm hư dương cang (tiến) thì phải tư âm tiềm dương, dùng bài 640 hoặc bài 20.640 là bổ can thận; 640 là bổ gan, “nhưng can thận cùng nguồn” thì thực chất là bổ gan thận. Hoặc như tỳ khí (dương) hư, có thể là kiện tỳ ích (dương), lập số là 380, thì “biện chứng thi trị” (tức chữa trị trên cơ sở biện chứng) đều phải dựa vào cương của âm dương.

Cách đọc tượng số: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8. Cũng giống như cách đọc bình thường nếu có số “0” thì cách đọc là không, như số 3810 đọc là ba tám một không.

Cách lập số theo nhất nguyên, như 650 hoặc 30; cách lập số phức tạp là kết cấu nhị nguyên hoặc tam nguyên như 650. 30 hoặc 650. 30. 820. vv…

– Tổ hợp các “nguyên” trong lập tượng số nói chung căn cứ “mẫu tử bổ tả pháp”, tức khi cần bổ tả, thì tượng số của nó tổ hợp vào trong một “nguyên”. Khi bình bổ, bình tả tượng số của nó đơn độc trong một “nguyên”. Như máu can không đủ sẽ lập tượng số 640 là thủy sinh mộc, bổ can huyết. Nếu can khí uất (thực) sẽ lập số là 430 hoặc 4000 là mộc sinh hỏa để tả can uất; nếu là giữa hư và thực, thì bình bổ, bình tả, tượng số của nó chỉ đơn độc trong một “nguyên”, nếu đau đùi, lập số 50.vv… Dấu chấm giữa các nguyên thì ngừng lại một chút.

Trong tượng số, việc dùng số 0 là rất phổ biến, nó hàm nghĩa và chức năng đặc biệt: số “0” là biểu tượng hỗn thiên nguyên khí của thái cực; nếu không có dẫn dắt của khí vô hình thái cực “0”, thì bát quái cũng không tồn tại được. Vì vậy nó không thể thiếu trong lập tượng số. Trong thực tiễn lâm sàng chỉ rõ, chức năng cơ bản của số “0” là làm tăng năng lượng sống tin tức, để thông khí âm dương, khi dùng số 0 chắn tức thiên âm, nếu số 0 lẻ thì thiên ôn dương, nếu số 0 đặt trước tượng số thì hơi thiên về âm, nếu đặt sau là hơi thiên về dương.

Tóm lại, học thuyết bát quái, học thuyết ngũ hành, học thuyết âm dương dùng để thông suốt chỉ đạo chẩn đoán và điều trị lâm sàng cho liệu pháp tượng số. Bệnh tật thì vô vàn loại, mà triệu chứng cũ biến hóa muôn phương nhưng phản ảnh trên con người thì chỉ phân biệt bệnh nếu không thuộc âm thì thuộc dương; vị trí bệnh; không thuộc biểu thì thuộc lý; tính chất bệnh không thuộc nhiệt thì thuộc hàn: sự thịnh hư của tà chính không thuộc hư thì thuộc thực; tất cả đều quy nạp vào 8 loại là âm, dương, biểu, lý, hàn, thực. Biện chứng bát cương là tổng cương của các loại biện chứng, mà âm dương thống lĩnh.

Trên cơ sở biện chứng, chọn ra nguyên tắc bổ tả tương ứng, tức “hư thì bổ, thực thì tả”, những triệu chứng giữa hư và thực thì dùng “bình bổ bình tả”. Trong liệu pháp tượng số bát quái bao gồm “mẫu tử bổ tả”, tức “mẹ sinh ra tôi là bố” “tôi sinh ra con là tả”, khi “tôi” ở vào giữa hư, thực thì dùng bình bể bình tả để làm phấn chấn khí cơ của tổ chức tạng phủ. Thí dụ khí phế hư thì lập tượng số 720 trong đó 7 là Cấn Thổ mẹ, 2 Đoài là Kim con (tôi) tức là 7 Cấn Thổ mẹ, sinh 2 Đoài Kim con, tức mẹ sinh ra tôi thì bổ hư cho tôi; nếu phế thực thì lập số là 260 hoặc 2600 (nếu thấp tà thịnh thì lấy số 0 lẻ còn ngược lại thì lấy số 0 chẵn). Trong đó 2 là Đoài Kim (tôi), 6 là Khảm Thủy con, cho nên bài này là (tôi) sinh 6 Khảm Thủy (Kim sinh Thủy) để lấy tả chữa thực cho (tôi). Nếu phế (tôi) ở vào dạng khó phân biệt hư thực, thì lập tượng số 2 để bình bổ tả là phấn chấn tạng tức là số 20.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *