Mặt Dây Chuyền Phật Tổ Như Lai Thích Ca Mâu Ni

Sự tích của đức Phật Thích Ca Mâu Ni

Để thể hiện sự kính trọng và tri ân mạnh mẽ đối với đức Thế Tôn, tất cả đệ tử của Người bản thân phải sống đúng với chánh pháp thông qua việc không làm những điều ác, nên làm những việc thiện, giữ tâm luôn thanh tịnh. Tất cả chúng ta phải là món quà tu tập, lạc quan, yên vui, và hạnh phúc thật sự để để cống hiến cho cuộc đời này

Tất Đạt Đa Cồ Đàm , 1 con người lịch sử, 1 thái tử dòng họ Thích Ca ở thành Ca Tỳ La Vệ, sinh vào ngày trăng tròn tháng Vesak tương ứng với tháng 5 thường lịch năm 624 TCN  dưới gốc cây Vô Ưu ở vườn Lâm Tỳ Ni, Nê-pan ngày nay. Siddhartha tức là con người hoàn hảo có đầy đủ tài năng, trí tuệ và đạo đức.

thich-ca

Thái tử sinh ra bảy ngày thì mẹ Người qua đời. Người mẹ kế của Ngừoi là Ma Ha Ba Xà Ba Đề săn sóc. Trưởng thành năm mười sáu tuổi, thái tử kết hôn với công chúa Da Du Đà La và có 1 người con trai độc nhất tên là La Hầu La. Phụ thân của thái tử là vua Tịnh Phạn.

Trong cuộc sống đầy đủ, sang giàu và sung sướng, tuy nhiên thái tử cảm thấy gò bó và khó chịu, cùng với người thân tính của mình tên là Sa Nặc, tiến hành 1chuyến đi ra khỏi bốn cửa thành hoàng cung để tham quan những cảnh thật bên ngoài. Ra khỏi cửa thành, đi về hướng Đông, thái tử và Sa Nặc gặp người lớn tuổi; đi về hướng Tây, 2 người gặp người bệnh tật; đi về hướng Nam, gặp người mất; và đi về hướng Bắc, gặp vị Khất sĩ. 1 trong 4  cảnh thực, cảnh thực thứ 4 là hình ảnh thái tử tâm đắc nhất làm đề tài thiền quán sau này giúp thái tử trở thành vị ẩn sĩ lang thang, sống 1 mình và không bị bó buộc bởi gia đình và con cái.

Năm 29 tuổi xuất gia, học đạo với 2 người đạo sĩ Alara  Kalama và Uddaka Ramaputta, trải qua sáu năm tu cực khổ với năm anh em của ông Kiều Trần Như, thấy hướng tu và sự chứng đạo của họ thiên kiến, thái tử đã chọn cho bản thân lối tu không tham đắm dục lạc và không khổ hạnh ép xác, nghĩa là hướng đi Trung Đạo với con đường Thánh có 8 làn xe chạy: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, và Chánh Định.

Sử dụng bát cháo sữa của nàng Su Dà Ta, nhận bó cỏ Kiết tường của người nông phu, đi thẳng đến Bồ Đề Đạo Tràng, Bồ tát Tất Đạt Đa nhất quyết ngồi thiền định dưới gốc Bồ đề bốn mươi chín đêm ngày cho đến khi tu thành chánh quả. Người thực hành thiền định từ đơn giản đến khó, quán niệm hơi thở ra vào đều đặn, an trú Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, Không Vô Biên Xứ Định, Thức Vô Biên Xứ Định, Vô Sở Hữu Xứ Định, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định, Diệt Thọ Tưởng Định.

Tới đêm bốn mươi chính, canh đầu, Bồ Tát chứng Túc Mạng Minh, hiểt rõ nhân quả các kiếp trước của Người; canh giữa, Người chứng Thiên Nhãn Minh, biết được nghiệp báo các đời trước của nhân loại; canh cuối, lúc sao mai vừa mọc, Ngài chứng Lậu Tận Minh, giác ngộ viên mãn, nhìn rõ 4 sự thật: Khổ, Khổ tập, Khổ diệt, Con đường đưa tới khổ diệt. Sau cùng, Bồ tát thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni lúc ba mươi lăm tuổi.

Sau khi Bồ Tát thành Phật, Phạm thiên Sahampati thưa thỉnh đức Phật 3 lần để đi hoằng pháp và giảng dạy nhân loại. Đức Phật chấp nhận các lời thỉnh mời của Phạm thiên, và tìm tới 2 người đạo sĩ trước đây, cả 2 người đều mất. Đi tới vườn Lộc Uyển ở Sarnath, đức Phật nói bài Pháp trước tiên cho 5 người bạn đồng tu. Cả 5 người này đều thấm nhuyễn diệu pháp và chứng quả A La Hán. Phật, Pháp và Tăng được thành lập ở đây.

Đức Phật và Tăng chúng chủ yếu sống dựa vô thiền định và việc giúp đỡ của người đàn việt để nuôi dưỡng thân tâm, dựa vào môi trường tự nhiên, vào sự tu chứng, an lạc và bình yên của tự thân để giáo hóa con người. Sống trong hoàn cảnh không nhà, quý Ngài có nhiều thời gian để tu tập và gắn kết với chúng sinh, dựa vào tình thầy trò, tình pháp lữ, tình đồng tu, tình hộ pháp và hoằng pháp để làm lợi lạc cho quần sanh.

Lúc những đệ tử của đức Phật càng lúc càng đông, đức Phật kêu gọi và khuyên bảo: “Này những Thầy Tỳ Kheo! Nên tìm đến nhiều hướng khác nhau để hoằng dương chánh pháp và giải cứu chúng sinh, nên mang sự tu tập bình yên và hạnh phúc của tự thân để giáo hóa nhân loại. Do bình yên và hạnh phúc cho chư thiên và loài người, các Ngài nên truyền bá chánh pháp cho tất cả nhân loại. Giáo pháp của Như Lai toàn hảo tại đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối, cả tinh thần lẫn văn tự. Các Ngài nên mang tới đời sống lương thiện và yên ổn cho số đông trên khắp trái đất này.

Về sau, đức Phật giáo hóa cho rất nhiều loại người khác nhau như những vua quan, quần thần, thương gia, tôi tớ, kể cả những người hốt phân, kẻ sát nhân và kỷ nữ. Giáo pháp và Tăng đoàn của đức Thế Tôn đều có thể dung nhiếp các người tới từ những giai cấp, tôn giáo, màu da, chủng tộc… khác nhau. Những người có đủ duyên học, tếp thu, thực hành, và áp dụng Phật pháp vào cuộc sống thường ngày của bản thân 1 cách đúng đắn và tỉnh giác, thì họ có thể mang tới bình yên và hạnh phúc thực sự cho tất cả con người trong cuộc sống hiện tại.

Những đệ tử của đức Phật chủ yếu bao gồm 2 chúng xuất gia và tại gia. Cả 2 chúng này đều bổ trợ cho nhau như hình với bóng làm nhân tố chủ đạo để đưa đạo Phật đi vào cuộc đời và làm cho đời có được cuộc sống hạnh phúc.

Hoằng dương chánh pháp trong bốn mươi lăm năm, hầu hết những gì đức Phật dạy như cầm lá cây trong lòng bàn tay để giúp con người nhận diện và chuyển đổi đau khổ, và mang tới 1 cuộc sống yên bình và hạnh phúc trong cõi đời này.

Trước lúc nhập Niết Bàn, đức Phật khuyên bảo những đệ tử: “Hỡi những đệ tử! Những pháp hữu vi đều vô thường và thay đổi. Mấy vị nên tinh tấn tu học và thực hành phật pháp nhiều hơn nữa để mang tới niềm vui và hạnh phúc cho đời. Đây là các lời giáo huấn tối hậu của Ta cho các người.

Trụ thế ở ở tuổi tám mươi, khoảng năm 544 TCN, đức Phật nhập diệt tĩnh lặng, nằm nghiêng mình về hông phải, chân trái trên chân phải duỗi thẳng, đầu quay về phía  Bắc dưới 2 cây song thọ ở rừng Sa La (Sala) tại quận Câu Thi Na (Kushinagar), Ấn Độ ngày nay.