Mặt Dây Chuyền Đá Thạch Anh

Đá Thạch Anh Aventurine

Mặc dù đá aventurine thường được xem như một loại đá thạch anh, nhưng nó thậm chí không phải là một khoáng chất theo đúng nghĩa. Nó là một loại đá, hoặc là quartzite hoặc là thạch anh từ đất phế, mà trong chúng có chứa các khoáng khác ngoài hạt thạch anh, thường là các khoáng mica mà có ánh kim loại. Một số người gọi nó là đá aventurine quartzite là do vậy.

Gọi nó là đá thạch anh aventurine giúp phân biệt nó với đá feldspar aventurine màu đỏ và cam, những đá mà bên cạnh việc nhẹ hơn và đôi khi mờ hơn thì có thuộc tính và hình dạng giống nhau.

Thuộc tính đặc trưng

Đá aventurine được phân biệt nhờ ánh sáng kim loại của nó, và cũng có thể do những màu sắc khác nhau, như xanh lục, đỏ, cam, vàng, hoặc xanh lam. Phần lớn đá aventurine được bán trên thị trường có màu xanh lục. Do cấu trúc dạng sần, đá aventurine có một khe nứt không theo quy luật, vậy nên những miếng đá thô không láng có bề mặt gồ ghề tương tự như đá hoa hoặc quartzite. Khác với đá hoa, nó không xốp, nhưng phần lớn đều chắc và chặt, chỉ như là quartzite.

Trong đá aventurine xanh lục, màu sắc thường được gây rag bởi một khoáng muscovite mang crom được gọi là “fuchsite”, K(Al, Cr)2AlSi3­­O10(OH)2, một khoáng trong nhóm mica. Aventurin xanh lam đôi khi được dãn nhãn thạch anh xanh lam, điều thường gây khó hiểu. Màu sắc thường được tạo rag bởi dumortierite, (Al, Fe)7O3(BO­3)(SiO4)3.

 Sự xảy ra

Địa điểm và mẫu vật

Nhiều đá aventurine chất lượng tốt đến từ Ấn Độ. Những nguồn khác đến từ Brazil và Norway.

Một mẫu đá thô không rõ nguồn gốc, có lẽ là từ Ấn Độ. Nó hơi mờ và có cấu trúc sần. Ánh sáng vàng lấp lánh được tạo ra bởi thể vùi pyrite nhỏ.

Norway

Một miếng đá aventurine có cấu trúc địa tầng, và lớp đá được đặt song song với các lớp (theo phương ngang trong hình ảnh). Những lớp đá mica riêng biệt có thể được nhận dạng dựa vào các đường nứt song song với các lớp đá. Từ From Lurøy, Nordland, Norway.

– Phạm Thị Hòa dịch