Kiến thức

Đá Thạch Anh Thiên Thạch Skarn Zones

Skarn là đá thuộc họ calc-silicate hình thành khi magma thâm nhập vào đá carbonat, như đá vôi và dolomites. Dòng chảy nóng từ magma, thường giàu silica, xâm nhập vào đá xung quanh và gây ra thay đổi trong cấu tạo khoáng chất bằng cách trao đổi vật liệu và phản ứng hóa học liên quan ở nhiệt độ cao. Sự thay đổi trong cấu tạo khoáng chất của đá với sự trao đổi lượng lớn vật chất được gọi là metasomatosis, trong khi sự thay đổi cấu tạo khoáng phần lớn là do thay đổi về áp suất và nhiệt độ được gọi là metamorphosis. Vậy nên, skarns không phải là đá metamorphic. Phản ứng hóa học xảy rag dẫ đến sự tích tụ những kim loại quý trong đá skarn, và những skarn nhất định là các quặng kim loại quan trọng và được khai thác về mặt thương mại.

Skarn đặc biệt hình thành một lớp phủ tách biệt khối pluton khỏi đá carbonate còn nguyên. Chiều rộng của skarn phụ thuộc vào kích cỡ của thể vùi, những khối magma nhỏ sẽ làm nguội nhanh hơn và thải ra nhiều chất lỏng, và những dung skarn của chúng thường chỉ rộng vài mét, trong khi skarn xung quanh những skarn pluton lớn rộng tới 100 m. Skarn không phải đá được hình thành đồng nhất, chúng cho thấy một dung rõ ràng. Những khoáng silicate ở nhiệt độ cao như ngọc hồng lựu được tìm thấy ở gần thể vùi lửa, carbonate được tìm thấy tiếp giáp với đá vôi. Những khoáng tiêu biểu được tìm thấy ở nơi có skarn bao gồm ngọc hồng lựu (đặc biệt là andradite), epidote, amphiboles, hematite, pyrite, wollastonite, và thạch anh.

Đới skarn có khả năng xảy ra quanh thể vùi granitoid pluton hơn là xung quanh thể tường núi lửa, ngưỡng cửa và vòm dưới núi lửa. Đó là do đá núi lửa, đặc biệt những đá của thành phần trung gian và cơ bản (bazan, andesite, etc.), thường khô và không tiết rag chất lỏng vào đá xung quanh.

Những tinh thể kim đục hình thành những kết tập như đồng cỏ trong các vân ở đới skarn. Được tìm thấy ở Kimmeria gần Xanthi, phía bắc Hy Lạp.

Một loại thạch anh tiêu biểu cho skarn: prase, màu đồng đều bởi thể vùi với những amphiboles xanh như actinolite. Vật mẫu lấy từ banơi có thạch anh lục nổi tiếng nhất, Elba (Ý), Serifos (Hy Lạp) và Dalegorsk (Nga) tất cả đều từ đá skarn.

Những tinh thể này đến từ Sinerenskoe, Dalnegorsk, Nga. Màu sắc của những tinh thể thạch anh được gây rag bởi thể vùi actinolite xanh đen, những tinh thể màu nâu cam là ngọc hồng lựu andradite.

Những khe nứt dạng núi cao

Phần này đã được chuyển sang một trang riêng biệt, nằm dưới “Những chủ đề đặc biệt”: Những khe nứt dạng núi cao

Những môi trường có thạch anh tự do

Trong một số môi trường địa chất nhất định, người ta không nên mong đợi tìm thấy bất kỳ thạch anh nào, hoặc là những tinh thể, lớn, hoặc ở dạng vi tinh thể. Điều này phần lớn được quyết định bởi hóa học của những khoáng hình thành đá trong những môi trường đó, nên phần này được chuyển sang phần Môi trường thạch anh tự do trong chương Thạch anh như một khoáng tạo đá.

Chú thích

2.1 Thuật ngữ “fluid” bao gồm cả giai đoạn khí và lỏng.

4.1  Điều này có vẻ quá dễ. Chúng tôi có 5 người ở địa điểm đó và tách các hốc tinh hàng giờ tới khi ammonite được tìm thấy.

8.1 Mỏ ở nơi những mẫu vật được lấy sản xuất rag trachyte, nhưng trachyte này là đá thô nâu đen, nằm bên dưới lớp mang tinh thể amygdaloidal. Lượng lớn canxit trong khe nứt và hốc tinh cho thấy cấu tạo dacitic hoặc andesitic.