Sách Phong Thủy và Sự Nghiệp (bí quyết chấn hưng sự nghiệp)

14. Long mạch là gì?

Long mạch là địa mạch mạnh mẽ, mềm mại, thoắt ẩn thoắt hiện như rồng. Địa mạch lấy hướng núi sông làm tiêu chí, vì vậy các nhà phong thủy học gọi địa mạch là long mạch, là khí mạch đi theo mạch núi.

Nói về long mạch đầu tiên phải phân biệt mạch chính và mạch nhánh. Tìm được mạch chính mà đặt huyệt Ở mạch nhánh là không cát. Sách “Kham Dư mạn hứng” nói: “Tìm long mạch phải phân biệt mạch chính mạch nhánh”.

Long mạch quan hệ mật thiết với các núi, gò của huyệt mộ. Phàm chân long (long mạch chính) cần có nhiều núi gò bảo vệ. Có nhiều núi gò hộ vệ, chủ càng giàu có, sang trọng.

Nhưng nếu mất khí của long mạch, dại bất cát. Nhận đúng long mạch, sau đó phải quan sát thủy khẩu, án sơn, triều sơn, minh đường, thanh long, bạch hổ mới toàn diện.

Xem thêm các mẫu Thạch Anh Vụn:

https://kimtuthap.vn/cung-cap-da-thach-anh-vun-phong-thuy-dai-nen-nha-dung-trong-xay-dung/

Thế của long mạch, lấy mềm mại. linh hoạt làm quý. Long mạch lên xuống trùng trùng, uốn lượn, như cá nhảy chim bay gọi là sinh long, địa huyệt cát. Nếu long mạch thô thiển, ngang, ngược, cồng kềnh, uể oải như cây khô, cá chết là tử long, địa huyệt hung. Nhà phong thủy chia long mạch thành các loại long sau: cường long, nhược long, phì long, sấu long, thuận long, nghịch long, tiến long, thoái long, bệnh long, kiếp long, sát long, chân long, giả long, quý long, tiện long…

Long mạch được núi vây quanh dày đặc là hộ vệ có tình, không lệch, không đi ngược. Hình thế long nên đoan trang nho nhã tú lệ. Nếu chủ khách không rõ ràng, mạch chính mạch nhánh không phân biệt, núi mọc lung tung, đá núi lộn xộn, hình thù quái dị là ác hình. Nơi như thế mà đặt địa mộ hung táng.

Mạch núi căn cứ vào hướng núi được chia làm 5 loại, tức “5 thế”. Thứ nhất, thế chính: long mạch phát ở phương Bắc, hướng tới phương Nam. Thứ hai, thế nghiêng: long mạch phát ở phương Tây, hướng lên phía Bắc, Bắc có huyệt hướng về Nam. Thứ ba, thế nghịch: long mạch nghịch thủy hướng lên, rồi theo dòng nước đi xuống. Thứ tư, thế thuận: long mạch theo thủy chảy xuống, rồi lại nghịch thủy đi lên. Thứ năm, hồi thế: long mạch trở về Tổ sơn.

Căn cứ vào phương hướng lượn vòng có thể chia long mạch làm hai loại: dương long và âm long. Dương long là long mạch từ núi Thái Tổ lượn vòng theo hướng chiều kim đồng hồ. Âm long là long mạch từ núi Thái Tổ lượn vòng theo chiều nghịch kim đồng hồ.

Một cách chia Dương long và Âm long khác là: căn cứ vào phương hướng của dòng chảy hai bên mạch núi để xác

định. Dòng nước từ hai bên mạch núi chảy đi, nếu dòng nước ở bên trái mạch núi, lấy hướng của mạch núi để luận long mạch tức dòng nước bên trái chảy sang bên phải, long mạch là Dương long. Nếu nước chảy ở bên phải mạch núi chảy sang bên trái tức dòng nước bên phải chảy sang bên trái, lang mạch là Am long.

Cụ thể hơn theo hình thái của mạch núi có thể chia long mạch làm 9 loại:

1- Hồi long: hình thế long mạch quay về núi Thái Tổ như rồng liếm đuôi, hổ quay đầu.

2- Xuất dương long: hình thế long mạch, phát tích ngoằn ngoèo như thủ xuất lâm, như thuyền vượt biển.

3- Giáng long: hình thế long mạch như rồng từ trên trời lao xuống.

4- Sinh long: hình thế long mạch vòng cung, mạch nhánh nhiều như chân rết, như dây leo.

5- Phi long: hình thế long mạch tụ tập như nhạn bay ưng lượn, hai cánh mở rộng, phượng hoàng nhảy múa hai cánh ôm bao.

6- Ngọa long: hình thế long mạch như hổ ngồi, voi đứng, trâu ngủ, vững vàng dừng trú.

7- Ẩn long: hình thế long mạch không rõ, mạch long kéo dài.

8- Đằng long: hình thế long mạch cao viễn, hiểm yếu rộng lớn như rồng bay vút lên trời cao.

9- Lãnh quần long: hình thế long mạch như hội tụ các nhánh, như đàn cá đang bơi, đàn chim đang bay.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *